Bài 3: Nghe chuông chính niệm
I. Nguyên tác và phiên âm
聞鐘 聞鐘聲,煩惱輕, 智慧長,菩提生, 離地獄,出火坑, 願成佛,度眾生。 唵,伽羅帝耶莎婆訶。 |
Văn chung Văn chung thinh, phiền não khinh, Trí tuệ trưởng, bồ-đề sanh. Ly địa ngục, xuất hỏa khanh, Nguyện thành Phật, độ chúng sinh. Án, già-la đế-da sa-bà-ha. |
II. Dịch nghĩa: Nghe chuông
Nghe tiếng chuông, phiền não nhẹ,
Trí tuệ lớn, bồ đề tăng.
Lìa tù ngục, thoát lửa hầm,
Nguyện thành Phật, độ chúng sinh.
Oṃ, cala teja svāhā.
III. Chú thích từ ngữ
Văn (聞, S. kalā): Nghe, sự nghe. Khi có một âm thanh vang lên, thính giác nhận biết thì gọi là nghe. Theo kinh Thủ Lăng Nghiêm, nghe có hai loại, nghe có âm thanh và nghe không có âm thanh; tánh nghe vốn không mất và chưa từng gián đoạn.
Phiền não (煩惱, P. kilesa; S. kleśa): Các trạng thái tâm lý tiêu cực, làm khổ não và nhiễu loạn tâm trí con người, gây chướng ngại cho sự giác ngộ và giải thoát. Có hai nhóm phiền não, a) Phiền não căn bản gồm 3 loại và 6 loại, b) Phiền não tùy thuộc gồm 20 loại. Ba phiền não căn bản còn gọi là ba độc tố của tâm (貪瞋痴) là tham ái (貪), sân hận (瞋), si mê (痴). Sáu phiền não gồm tham (貪), sân (瞋), si (痴), mạn (慢), nghi (疑) và ác kiến (惡見).
Trí tuệ (智慧, P. paññā S. prajñā): Còn gọi là tuệ giác, minh giác, trí giác. Là năng lực quan trọng nhất trong năm năng lực (bala), là yếu tố cuối cùng của ba học thánh (sikkhā) và sáu toàn thiện (pāramītā). Đây là năng lực tuệ minh giúp con người giải phóng toàn bộ nỗi khổ, niềm đau, trải nghiệm an lạc, hạnh phúc. Trong công thức bát chính đạo (magga), để có được trí tuệ, hành giả phải thực tập hoàn thiện đạo đức tối và thiền định, từ đó, thực chứng niết bàn (Nibbāna), trở thành thánh nhân (ariyapuggala) trong kiếp sống hiện tại, bây giờ và tại đây. Người có trí tuệ, nhờ sống vô ngã (anattā) nên trong tiến trình vô thường (anicca) đối với bản thân, người thân và sự vật yêu quý, không bị khổ đau (dukkha).
Có 3 lại trí tuệ mà người học Phật nỗ lực đạt được, gồm: a) Văn tuệ (suta-mayā-paññā) tức trí tuệ do học rộng, nghe nhiều chân lý, chính pháp, b) Tư tuệ (cintā-mayā-paññā), trí tuệ do tư duy, thẩm sát về chân lý và chính pháp, và c) Tu tuệ (bhāvanā-mayā-paññā), trí tuệ do phát triển tâm, tức hoàn thiện đạo đức và thiền định.
Theo Phật giáo Bắc truyền, có hai loại trí tuệ là: a) Căn bản trí, tức tính Phật sẵn có trong mỗi con người và chúng sinh có tình thức, và b) Hậu đắc trí, tức trí tuệ do tu tập trọn vẹn đạo đức và thiền định.
Bồ-đề (菩提, P=S. bodhi): Phiên âm Hán Việt của tiếng Pali và Sanskrit là “bodhi”, có nghĩa là giác (覺) hay trí tuệ (智慧). Người đạt bồ-đề là người đã chấm dứt phiền não (煩惱障斷) và không còn chướng ngại về sự hiểu biết (所知障斷).
Ly (離): Xa lìa, xa lánh. Thoát ra khỏi. Không còn dính dáng đến. Lìa khổ thì đắc lạc. Lìa ngụy thì được chân. Lìa tham thì không bị câu thúc. Lìa sân thì được hoan hỷ. Lìa si thì được trí tuệ. Lìa phàm thì được thánh. Lìa địa ngục thì được an vui.
Địa ngục (地獄, P. niraya; S. niraya, naraka): Còn gọi là đường địa ngục (địa ngục đạo 地獄道), cõi địa ngục (địa ngục thú 地獄趣), hiện hữu địa ngục (địa ngục hữu 地獄有) hay thế giới địa ngục (địa ngục giới 地獄界). Trong Hán Việt thường được phiên âm là nại-lạc-ca (捺落迦), na-lặc-ca (那落迦), nại-lạc (奈落), ni-lợi-da (泥梨耶) hay ni-lợi (泥梨). Thường được dịch là không hạnh phúc (不樂), đáng chán (可厭), công cụ khổ đau (khổ cụ 苦具 hay khổ khí 苦器). Địa ngục là nơi bị câu thúc và không được tự do, tự tại.
Địa ngục là cảnh giới thấp nhất và là nơi khổ nhất của lục phàm (năm cảnh giới còn lại thiên, a-tu-la, nhân, ngạ quỷ và súc sanh). Địa ngục được chia làm ba loại chính. Loại một là địa ngục căn bản (根本地獄) gồm 16 địa ngục, tức tám địa ngục nóng (八熱) và tám địa ngục lạnh (八寒). Loại hai là địa ngục cận biên (近邊地獄) gồm có 136 ngục (xung quanh mỗi địa ngục nóng lại có 16 địa ngục gần bên). Loại ba là địa ngục cô độc (孤獨地獄, S. Lokāntarika). Quả báo khổ đau và thọ mạng chịu khổ ở các địa ngục là khác nhau.
Trong ngữ cảnh của Tỳ-ni nhật dụng, địa ngục được hiểu là địa ngục nóng, gồm có tám địa ngục nóng (八熱地獄) còn gọi là tám địa ngục lớn (八大地獄) bao gồm: a) địa ngục đẳng hoạt (等活, S. Samjīva), b) địa ngục hắc manh (黑繩, S. Kaslasūtra), c) địa ngục chúng hợp (眾合, S. Samghāta), d) địa ngục khiếu hoán (叫喚, S. Raurava), e) địa ngục đại khiếu (大叫, S. Mahāraurava), f) địa ngục hỏa nhiệt (炎熱, S. Tapana), g) địa ngục cực nhiệt (極熱, S. Pratāpana) và h) địa ngục a-tỳ hay vô gián (阿鼻、無間, S. Avīci).
Tám địa ngục lạnh (八寒地獄) gồm đại ngục a) an-bộ-đà (頞部陀, S. Arbuda), b) ni-lặc-bộ-đà (尼剌部陀, S. Nirarbuda), c) an-lặt-tra (頞哳吒 hoặc 阿吒吒, S. Atata), d) A-ba-ba(阿波波, S. Apapa), e) hổ-hổ-bà (虎虎婆, S. Hāhādhara), f) ôn-bát-la (媼鉢羅, S. Utpala), g) bát-đặc-ma (鉢特摩, S. Padma) và h) ma-ha bát-đặc-ma (摩訶鉢特摩, S. Mahāpadma).
Trong các địa ngục được mô tả, địa ngục vô gián (無間地獄, S. avīci) là nặng nhất với năm hình thức trừng phạt: Quả ở cõi khổ vô gián (趣果無間), chịu khổ không dứt (受苦無間), thời gian khổ không dứt (時無間), mạng sống khổ không dứt (命無間), thân hình khổ vô gián (形無間).
Nếu địa ngục được hiểu là trạng thái không hạnh phúc, do hậu quả của các hành động bất thiện, thì học thuyết địa ngục là sự răn dạy về đạo đức, theo tinh thần sợ sự trừng phạt khốc liệt, quay đầu hướng thiện. Bất cứ nơi nào chỉ toàn là cảm giác khổ đau (苦受), không có hỷ lạc (喜樂) đều được xem như địa ngục (喻為地獄). Theo nghĩa này, địa ngục là tù ngục của khổ đau bất tận.
Hỏa khanh (火坑): Hầm lửa nóng. Tên gọi khác của địa ngục nóng (熱地獄). Trạng thái căng thẳng, bức bách, hận thù… làm cho con người sống trong hầm lửa bất hạnh.
Nguyện thành Phật (願成佛): Mong được giác ngộ toàn mãn, mong thành bậc chính đẳng giác. Đây là thệ nguyện cao nhất trong các phát nguyện, mà một người thực hành đạo Bồ-tát cần thực hiện. Đức Phật Thích-ca đã phát nguyện dưới cội Bồ-đề tại Bồ-đề đạo tràng: “Thà thịt nát, xương tan, nếu không thành chính đẳng chính giác, ta quyết không rời khỏi cội cây này”.
Độ (度): Cứu độ, cứu vớt, cứu giúp. Chữ độ có bộ thủy (渡) là vượt qua sông, bơi qua sông. Sinh tử là bờ bên này. Độ đắc (度得) hay độ giả (度者) trong Phật học có nghĩa là người xuất gia. Niết-bàn là bờ bên kia. Sáu ba-la-mật (pāramitā) là cách giúp ta đến được bờ bên kia của Niết-bàn. Trong ngữ cảnh của thi kệ này, độ ở đây có nghĩa là cứu độ tha nhân (度他) hay cứu độ cuộc đời (度世), cứu độ chúng sinh (度眾生).
IV. Giải thích gợi ý
Thực tập nghe chuông là nghệ thuật làm chủ “thinh trần”, dẫn đến sự tỏ ngộ, vứt hết tất cả những cái mê của sinh tử luân hồi. Trong bài kệ nghe chuông, ta tập trung lắng nghe tiếng chuông ngân nga, du dương, trầm bổng, sâu lắng, thư thái, đi thẳng vào trong đời sống nội tại, nhờ đó, làm chủ cảm xúc của ta. Khi sử dụng tiếng chuông như nhạc liệu pháp, thì năng lực trị liệu của nghe chuông sẽ làm cho tâm ta được thư thái và bình an.
Ngày nay, người Trung Quốc đã phối hợp các nhạc cụ với ngũ hành tương sinh, chọn ra các loại sóng âm thích hợp. Nghe các loại sóng âm thích hợp, người ta tin rằng việc trị liệu các nỗi khổ niềm đau về cảm xúc sẽ có kết quả. Người nào mạng mộc nghe những loại nhạc cụ và sóng âm thuộc về hỏa, do mộc sinh ra hỏa; hoặc người mạng mộc có thể nghe âm thanh có đặc tính là thủy, vì thủy sẽ làm cho cây được trưởng thành. Việc tạo ra và tìm kiếm những loại sóng âm thích hợp sẽ làm cho sự nghe một cảm giác thoải mái.
Trong đời sống thực tế, có tình huống nghe giọng nói của người A, B, C dù mới lần đầu, ta có thiện cảm liền vì giọng nói này có chất liệu từ tốn, hiền đức, cao thượng, đáng tin cậy, khác hoàn toàn với người sử dụng giọng nói như nghệ thuật giao tế để đắc nhân tâm mà thực tế tấm lòng của họ không được như thế. Quán chiếu sâu sắc ngữ điệu của âm thanh, ta dễ dàng nhận được sự khác biệt giữa hai loại âm thanh vừa nêu. Đây là sự tinh tế trong việc cảm nhận âm thanh của lỗ tai.
Mục đích chính của việc nghe tiếng chuông là giúp ta lắng được các phiền não khi đang có cơn tức giận hay thất niệm đang trỗi dậy trong tâm. Thỉnh tiếng chuông lên, tâm tập trung vào tiếng chuông với độ ngân vang của nó, ta không có cơ hội để nghĩ tưởng tới người tạo ra cho mình nỗi buồn, bao gồm người thù hằn, gây hấn, chọt gậy bánh xe, phá đám, kẻ ganh tỵ, hờn ghen v.v… Nghe chuông trong chính niệm thực chất là thực tập thay thế đối tượng nghe của lỗ tai, có khả năng giúp ta chuyển hóa dòng cảm xúc phiền não ra khỏi nội tâm, nhờ đó, ta được thoải mái và bình an.
Cần hiểu rõ mục đích của sự nghe tiếng chuông trong chính niệm là tạo ra sự tỉnh thức. Điều này cũng giống như mình cài điện thoại di động hay điện thoại bàn hoặc chiếc đồng hồ một giờ báo thức với một loại âm thanh báo thức nhất định. Đến giờ phút cần được báo thức, âm thanh hiệu lệnh báo thức sẽ bật lên. Thực ra, báo thức chỉ có chức năng đánh thức hay báo giờ là hết. Trong trường hợp nghe tiếng chuông, nội dung được lỗ tai tiếp nhận thì sâu sắc hơn: “Trí tuệ lớn, bồ đề tăng”. Bồ đề là bodhi, phiên âm từ tiếng Pali Sankrit, có nghĩa là trí tuệ, sự giác ngộ.
Mục đích của trị liệu pháp tiếng chuông là giúp ta có được sự tỉnh thức, giác ngộ và mở mang tâm trí để ta sống một cách sáng suốt hơn, hạnh phúc hơn, bình an hơn.
Áp dụng phương thức nghe trong chính niệm, ta có thể nghe các loại âm thanh của con người và cuộc đời với nhiều sắc thái, cảm xúc khác nhau, mà tâm vẫn không bị phiền não làm loạn động. Nếu nghe bằng tâm phê bình, chỉ trích, ta sẽ có thói quen bới móc lỗi của người khác, thậm chí họ không có lỗi ta cũng dựng chuyện để tạo thành lỗi. Khi nghe với tâm thông cảm và sự thấu hiểu, thì ta không còn thấy con người là kẻ thù của con người nữa. Những nỗi khổ niềm đau do tham, sân, si tạo ra, chính là kẻ thù chung của nhân loại, chứ không phải con người.
Thay vì đấu tranh để thắng người A, vượt qua người B, khống chế người C, Đức Phật dạy chúng ta “hãy chiến thắng chính mình”, bằng cách vượt qua được tham, sân, si. Việc thực tập vượt qua nguyên nhân của khổ đau sẽ làm tăng trưởng trí tuệ và bồ đề tâm.
Kết quả tất yếu của sinh trưởng bồ đề trong đời sống sẽ giúp ta thoát khỏi mọi ngục tù. Chúng tôi không dùng từ “địa ngục”, vì đây là khái niệm mang tính triết lý, dựa vào quan niệm dân gian “có ngục tù dưới âm phủ”. Những kẻ xấu, ác, bất thiện, phạm pháp, phi đạo đức sẽ bị trừng phạt từ đời này sang kiếp nọ. Do sợ các hình phạt nặng nề của địa ngục mà nhiều người không dám làm ác và quay đầu hướng thiện.
Từ “tù ngục” có ý nghĩa hình dung và biểu tượng cho khổ đau bất tận. Trong cuộc sống giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em, bạn bè và xã hội, nếu không hiểu nhau, lấn lướt nhau, tranh đoạt quyền lợi của nhau, không tôn trọng nhau, gây đau khổ cho nhau, được hiểu là chúng ta đang tạo ra ngục tù cho nhau. Các tù ngục từ “va chạm cái tôi” có thể thiết lập nên các vạn lý trường thành, những bức tường Berlin, những dãy Trường Sơn và khoảng cách giữa ta và người khác trở thành nỗi ám ảnh khó hàn gắn.
Những tù ngục như thế mang lại nỗi khổ niềm đau rất lớn. Sống trong không gian cái tôi, ranh giới giữa ta và người, lửa của không hoan hỷ, lửa của bất hạnh, lửa của đau khổ trong tâm đốt cháy chúng ta hàng ngày, hàng giờ.
Ai từng sống trong bối cảnh xã hội phương Tây cảm nhận điều này rất dễ. Một căn nhà trung bình vài trăm mét vuông, có nơi sang trọng rộng đến cả ngàn mét vuông, có sân trước vườn sau, trong nhà có tầng trệt, có lầu. Mỗi tầng có vài phòng: Chồng phòng riêng, vợ phòng riêng, con phòng riêng. Thế mà khi đến tuổi 18, con cái đã muốn tự lập, không muốn lệ thuộc vào cha mẹ nữa dù căn nhà đó có thể chứa được chục người.
Cái tôi khi được đề cao quá mức, con người cảm thấy bị xung đột, xúc phạm và thương tổn. Bức tường thành “cái tôi” đó làm cho ta khó có thể sống với người khác trong hạnh phúc. Ở xã hội phương Tây, vợ chồng nào sống hạnh phúc với nhau thì hạnh phúc đó tăng gấp bội, nên khi không hiểu được nhau thì khổ đau cũng tăng gấp bội, thậm chí dẫn đến trầm cảm hoặc tự tử. Ở Hoa Kỳ, cứ mỗi ngày trôi qua, có vài chục người tự tử; các nước phương Tây trung bình có 25 – 30 người tự tử do bế tắc hoặc trầm cảm. Người ta cảm thấy thế giới cái tôi như những tù ngục và lửa hầm xuất hiện trong quan hệ không hiểu biết nhau, không cảm nhận được nhau, không cảm thông nhau, không rộng lượng tha thứ cho nhau, làm cho họ có thể tấn công nhau bằng chiến tranh lạnh hoặc khi mở miệng là trở thành vũ khí miệng lưỡi. Những cái đanh đá với nhau đã làm cả hai mất hạnh phúc.
Mong sao các tù ngục đó, các lửa hầm như thế sớm được vượt qua, nhờ nghe tiếng chuông tỉnh thức. Khi nghe tiếng chuông, ta cầu mong cho mình và những người khác được thành Phật để giúp cuộc đời và con người bớt đi những nỗi khổ và niềm đau.
Trong xã hội phương Tây, tiếng ồn được xem là một loại ô nhiễm. Khu dân cư ở phương Tây được xây dựng biệt lập với khu công nghiệp và khu chợ. Chợ ở trong khu vực buôn bán. Kết thúc giờ hành chánh, người buôn bán không được quyền ở lại công sở và khu buôn bán, phải trở về nhà. Sự yên tĩnh tại nhà làm cho nhiều người cảm thấy hạnh phúc.
Người ta thiết kế dọc theo các con đường những bức tường bằng gạch, bằng kính hoặc bằng ván để ngăn chận tiếng ồn, không tác động đến khu cư dân. Xã hội phương Tây rất quan trọng về hạnh phúc “không tiếng ồn”. Đức Phật nói trong kinh: “Tiếng ồn là cây gai của thiền định”. Tiếng ồn tác động đến lỗ tai thường xuyên, có thể tạo ra căng thẳng, ký ức giảm và gia tăng phiền não.
Thực tập thỉnh chuông và nghe chuông trong xã hội phương Tây, ta phải hiểu văn hóa của họ. Tiếng chuông, tiếng mõ được xem như âm hưởng tỉnh thức với người tu và người Phật tử. Với những người Thiên Chúa giáo, Tin Lành giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo thì tiếng chuông được xem là phiền não. Ta phải cẩn trọng khi sử dụng các pháp khí, Phật cụ khi làm đạo ở phương Tây. Không khéo khi nghe tiếng chuông mõ nhiều, họ sẽ bị phiền não, phát sinh tâm lý thưa kiện, dẫn đến tình trạng chùa bị đóng cửa. Một số ngôi chùa ở Mỹ, Úc và Canada trong giai đoạn đầu bị đóng cửa chỉ vì không hiểu rõ bản sắc văn hóa của quốc gia mà mình đang sinh sống. Thực tập thích ứng văn hoá âm thanh và văn hóa nghe là cách giúp ta không tạo phiền não cho nhau.
V. Câu hỏi gợi ý
1. Vì sao nghe chuông được xem là liệu pháp, giúp người nghe vượt qua phiền não?
2. “Địa ngục” là gì? Hãy liệt kê và phân tích các nỗi khổ niềm đau nào được xem như là đang sống trong địa ngục?
3. Cho biết vai trò của trí tuệ như chìa khoá giải phóng khổ đau?
***