Đạo Phật Ngày Nay

Linh thọ Bồ-đề tại Bồ-đề Đạo tràng

Chúng ta được biết đức Phật thành đạo dưới cội cây Pippala, loại cây linh thiêng trong tín ngưỡng truyền thống Ấn Độ bởi họ tin tưởng rằng loài cây này có nhiều thần linh trú ngụ. Vì đức Phật giác ngộ dưới cội cây Pippala nên chúng ta lấy sự kiện đó đặt tên cho loài cây này là Bồ đề, nghĩa là cây giác ngộ. Chính tại dưới gốc cây này, đức Phật đã phát lời thệ nguyện: “Nếu không đạt thành chánh giác, dù cho thịt nát xương tan, Ta quyết không đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi này”.

Hình dáng của loại cây này rất dễ nhận diện nhờ vào chiếc lá hình quả tim. Loài cây này rất phổ biến, chúng ta đi khắp nơi trên đất Ấn chỗ nào cũng thấy bóng dáng của nó. Ngày nay loại cây này không còn lạ gì trong mắt người Việt Nam, nhất là người Phật tử, cây Bồ đề luôn ẩn hiện trong lòng một cảm giác thiêng liêng, không phải bị ảnh hưởng bởi tín ngưỡng Ấn Độ mà vì nó liên quan đến từ ngữ đặc trưng trong Phật giáo: Bồ đề - Giác ngộ. Mặc dù vậy, nhưng không có một cây Bồ đề nào trên đất Ấn hay trên mọi miền thế giới có giá trị từ tâm linh đến lịch sử như linh thọ Bồ đề tại Bồ Đề Đạo Tràng, vì nó chính là hậu thân nhiều đời từ cây thủy tổ, cây đã từng che mưa đỡ nắng trong suốt bốn mươi chín ngày đêm trước khi đức Phật giác ngộ.

Cội cây Bồ đề này cũng chịu đựng biết bao sóng gió để tồn tại, như chính con người chúng ta cũng phải chống chọi với biết bao gian khổ để tìm sự sống cho mình. Dù là một loài cây nhưng phải hội đủ những yếu tố cần thiết mà trong đó không thể thiếu được tình cảm của con người dành cho nó. Nếu không có bàn tay yêu thương chăm sóc của con người thì làm gì có cây Bồ đề hôm nay để có một giá trị tín ngưỡng thiêng liêng và sức lôi cuốn mãnh liệt đối với người con Phật hay hàng triệu người từ khắp nơi trên thế giới đổ xô về Bồ Đề Đạo Tràng để chiêm ngưỡng cội cây đặc biệt này.

Để thấy được tầm quan trọng của cây Bồ đề tại Bồ Đề Đạo Tràng, chúng ta cùng tìm hiểu đôi nét về lịch sử cây Bồ đề này.

Cội Bồ đề cách nay hơn 2.500 năm che mưa nắng cho đức Thế Tôn ngày nào không còn nữa. Giờ đây chỉ là cây kế thừa ít nhất là 5 đời được tính từ cây thủy tổ theo tài liệu của Tiến sĩ Schumann và khoảng 7 - 11 đời theo một số tài liệu nghiên cứu khác. Do đó, có nhiều giả thuyết khác nhau về lịch sử cây Bồ đề, nhưng chúng ta biết chắc chắn một điều là cội cây này vẫn là cháu chắt nhiều đời từ thủy tổ của nó. Cây Bồ đề nguyên thủy vẫn còn sống đến thời của vua A Dục (Asoka) và được nhà vua xây rào bảo vệ. Bên cạnh đó ông đã nhân rộng cây quý này bằng cách chiếc nhánh của nó gửi tặng cho vua Tích Lan (Devanampiya Tissa), trồng tại thành phố cổ Anuradhapura vào năm 242 trước kỷ nguyên Tây lịch.

Vua A Dục chăm sóc cây Bồ đề này rất cẩn thận. Hàng ngày vua đến thăm cây Bồ đề với cả lòng ưu ái và kính trọng xem như một báu vật quốc gia vì quá sùng kính đức Thế Tôn. Do lòng ghen tỵ, quý phi diễm lệ của A Dục tên là Tisyaraksita, đã hạ lệnh lén chặt cây Bồ đề và thiêu hủy nó, bởi bà tưởng rằng trong cây ấy có loại tiên nữ nào đã làm mê muội nhà vua mà ông phải dành nhiều thời giờ quan tâm đến cây ấy hơn bà.

Vua A Dục đã trồng lại cây Bồ đề từ nhánh cây được chiết ở Tích Lan đem về. Lần này nhà vua chăm sóc cây rất cẩn thận, ông cho xây bức tường thành cao 3m để bảo vệ.

Việc phá hủy cây Bồ Đề lần hai do vua Sasanka xứ Ganda (Bengal), trị vì khoảng năm 600 – 620, vì lý do tôn giáo. Vua Sasanka theo ngoại đạo nên không thích Phật giáo. Ông đã truyền lệnh đốn cây thiêng này đồng thời đem đốt toàn bộ gốc rễ làm cho tuyệt giống.

Đến cuối thế kỷ VIII vua Purnaverma của Maghada, người nối dõi cuối cùng dòng vua Asoka, ông đã trồng lại cội Bồ đề. Vua thành khẩn cầu nguyện và chăm sóc cây Bồ đề cẩn thận, mong nó được tốt tươi và phát triển nhanh. Ngoài ra ông còn cho xây bức tường cao khoảng 7,5m để bảo vệ, tránh đi sự phá hủy của kẻ xấu.

Sự phát triển bền vững và tươi tốt của cội cây thiêng này kịp đến quân đội Hồi giáo xâm chiếm Ấn Độ vào năm 1201. Chính vì chiến tranh tôn giáo của kẻ cuồng tín và cực đoan trong nhận thức, nên họ đã phá hủy toàn bộ thánh tích Phật giáo, trong đó ngôi đại tháp và cây Bồ đề cũng chịu chung số phận hoại diệt dưới tay của kẻ xâm lăng bạo tàn. Mặc dù vậy, chân lý vô thường sinh diệt của đạo Phật đã được minh chứng qua sự kiện hồi sinh của cây Bồ đề. Ngay nơi gốc cây đã bị tàn phá, một chồi non đã nhú lên và phát triển nhanh chóng, cành lá sum suê, như báo hiệu một niềm hạnh phúc đã trở về trên quê hương Phật giáo. Nạn kiếp trôi qua, vạn vật cũng như con người trở lại sống trong chuỗi ngày thanh bình, như chính thuở nào họ đã thừa hưởng được cuộc sống hạnh phúc, an lành trong ánh đạo từ bi của Phật giáo.

Đến năm 1875, cây Bồ đề bị khô chết và trong một cơn bão sau đó, cội Bồ đề đã bị cuốn phăng đi, kết thúc một giai đoạn cho sự tồn tại và phát triển của cây này. Về sau cũng chính nơi đó chồi non lại tiếp tục nảy nở và phát triển, sự sống vẫn được liên tục kế thừa từ mạch sống của cây Bồ đề tổ tiên. Cội Bồ đề này đã lớn lên và phát triển đến ngày nay, được tính trên 130 tuổi, cách tháp chính khoảng 5m. Mặc dù trải qua nhiều lần sinh diệt, nhưng vị trí ngày hôm nay so với gốc cây ban đầu vẫn không có sự thay đổi chuyển dịch, vẫn định vị như gốc cây nguyên thủy mà hơn 2.500 năm về trước, nơi mà nhà khổ hạnh Sĩ Đạt Ta đã giác ngộ thành Phật.

Theo định nghĩa Thực vật học, cây Bồ đề là "ficus religiosa" nghĩa là biểu tượng cho trí tuệ và sự giác ngộ của đức Phật, nên gọi là "cây Giác ngộ," hoặc thường được gọi là "cây Bồ đề”. Thực ra, các nhà Thực vật học xác tính tuổi thọ của loại cây này chỉ trên dưới 300 năm. Do đó, nếu không có sự hủy hoại của những thế lực ngoại đạo hay lòng hiềm thù cá nhân của một ai đó thì tự thân của loại cây này cũng phải tự diệt tự sinh theo một quy luật của nó mà thôi. Cần biết thêm một điều, cây Bồ đề là cây có khả năng ký sinh, nghĩa là có thể sống và phát triển trên một hốc cây mục nào đó, hoặc ngay nơi thân cũ của nó. Hầu như quá trình kéo dài hàng ngàn năm cho sự tồn tại và phát triển, thì các chồi non của chính nó, sẽ lấy dưỡng chất từ thân cây mẹ nuôi dưỡng cây mới và cây cũ sẽ chết trong một hình thái bị bao bọc và che kín dần của cây mới tức cây con của nó. Đó là quy trình sống của loài cây đặc biệt này, loài cây có khả năng sống mãnh liệt và dễ thích nghi dù bất cứ môi trường khắc nghiệt nào. Nơi nào có sự sống thì nơi đó cây Bồ đề có khả năng tồn tại, cũng giống như nơi nào có chúng sanh nơi đó có mặt đạo Phật, nơi đó cần được cứu khổ.

Bình luận