Nỗi buồn Tấm Cám
Đọc sử tích thế giới, một điều chúng ta dễ nhận thấy điểm chung là sự kiện xung đột sắc tộc, xâm lấn quốc gia, chiến tranh tôn giáo, tranh chấp nội bộ, xảy ra khắp nơi trên hành tinh. Ước mơ xây dựng một xã hội được tự do bình đẳng, thiên nhiên được bảo vệ, mọi loài biết thương nhau vẫn còn là lời cầu nguyện. Tất cả những vấn đề trên có liên quan đến tâm ý mỗi cá nhân trong tập quần xã hội, mà ở đó yếu tố hạnh phúc và yêu thương trong liên hệ gia đình góp phần rất lớn. Nhưng thực tế rất ít người có khả năng buông lòng hận thù để chuyển hóa tình trạng tự thân, hướng tới nếp sống an lành.
Lời Bụt đã nói: “Người đời trải nghiệm từ cái khổ này đến cái khổ khác, như con cá sống trong một nơi mà nơi đó nước càng ngày càng khô cạn. Trong hoàn cảnh khổ đau, ý tưởng bạo động dễ nẩy sinh và con người vì u mê cứ đi tìm sự bớt khổ bằng những phương tiện khủng bố và trừng phạt”. (Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi, Nghĩa Túc Kinh 16). Đi tìm sự bớt khổ bằng những ý tưởng bạo động, trấn áp, củng cố địa vị quyền lực là khuynh hướng chung. Qua văn học sử mà người xưa kể lại, qua ý đạo - tình đời, chúng ta cùng suy nghiệm về cách hành xử như thế nào mà con người và xã hội càng đi sâu vào khổ đau bế tắt như hiện nay?
Thời La Mã xưa, người hiệp sĩ của đế chế được giáo dục chiến đấu trên lưng ngựa, tiến hành các cuộc Thập Tự Chinh sang các nước lâng bang, gây chiến tranh tôn giáo. Đấng tiên tri của Hồi giáo (Islam) là Muhammad viết bộ Thánh kinh Koran (Quran). Ông cũng có tư tưởng xây dựng một xã hội công bằng bác ái. Nhưng khi ông thuyết giảng thì người ta lại sợ hãi với hệ thống tư tưởng của ông. Để rồi ông phải bỏ trốn ra khỏi thành Mecca năm 622 vì nhiều người phản đối. Các thủ lĩnh Hồi giáo đời kế tiếp lại cách giáo dục bằng sự kêu gọi Thánh chiến. Những cuộc Thánh chiến cảm tử dai dẳng, trở thành niềm lo sợ khốc liệt cho nhân loại ngày nay. Dù không theo chủ nghĩa cực đoan trên hiện tượng, nhưng có thể mình đã từng là nạn nhân của chủ nghĩa cực đoan tâm lý. Mình có niềm tin là chỉ có hành động phản ứng và trừng phạt những người mà mình nghĩ đã tạo ra sự buồn đau trong đời mình. Rơi vào tình trạng đó không khác gì tình trạng của con cá sống trong một nơi mà nước càng ngày càng khô cạn (triển chuyển khổ giai thế nhân, như càn thủy đoạn lưu ngư). Mình không gây Thánh chiến nhưng vì có khối nội kết như mũi dao nhọn trong lòng, mình đã gây nhiều đau thương cho chính mình và kẻ khác.
Khi sử tích Trung Hoa được các nhà làm phim xây dựng thành phim thì xuất hiện nhiều nhân vật anh hùng đầy sát khí trên màn ảnh. Đài truyền hình của một tỉnh vừa phát sóng bộ phim Thủy Hử vào dịp tết. Mọi người đều cảm kích nhân vật Võ Tòng và lên án Tây Môn Khánh, Phan Kim Liên. Ai cũng khen chàng Võ Tòng có tình nghĩa, biết thương người. Đến lúc Võ Tòng hiện thân một sát thủ vì tư thù thì ai cũng giật mình: “Trời, sao thấy ghê quá!”. Thời bây giờ nếu xuất hiện một Võ Tòng kiểu này, chắc chắn lực lượng công an sẽ truy tố tội danh nặng hơn Phan Kim Liên và Tây Môn Khánh. Đang đọc sách nhà trên, tôi nghe tiếng “đáng đời, đánh nữa đi!” phía nhà dưới. Tưởng gì, hóa ra là cả nhà đang xem cảnh đánh đấm. Vì nhập vai nhân vật nên mọi người hả hê! Riêng tôi thì chạnh lòng. Chất liệu bạo động qua phim ảnh đã làm lệch lạc nhân cách của rất nhiều người. Người ta thích xem cảnh chém giết. Đến một lúc nào đó thì tâm hồn trở nên lạnh lùng vô cảm nên không còn biết thương xót tha nhân nữa. Thái độ vô cảm không dừng ở mức cá nhân mà lây lan cộng đồng. Nó đang ở đỉnh cao của triệu chứng bệnh tâm lý xã hội. Điều đó còn nguy hiểm hơn những căn bệnh sinh học như viêm gan siêu vi, HIV, ung thư hay Melamin trong sữa.
Đọc chuyện cô Tấm, tôi thấy một người hơi kỳ thị đó là ông Bụt (gọi là ông Tiên theo tư tưởng thần thánh thì đúng hơn). Ông Bụt trong Tấm Cám không phải là vị Bụt lòng đầy từ bi và tuệ giác trong kinh điển Phật giáo. Ông Tiên đó chỉ xuất hiện khi cô Tấm lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Cách hành xử của ông rất chủ quan, đợi nước đến chân mới chạy, đợi người ta quằn quại trong đau khổ thì mới tìm tới. Mà khi tới thì ông chỉ nghe tâm sự từ một phía. Dường như với năng lực của Tiên, thì nơi ông chỉ có chất Thần mà thiếu chất Thông. Chỉ ban cho người ta với chút ít vật chất nhưng không giúp cho người ta khai thông nội tâm mà thiết lập lại liên hệ tốt với mọi người.
Nếu ông Tiên biết tìm tới Tấm thì cũng phải dành thời gian tìm tới Cám để giúp đỡ Cám và tìm hiểu khó khăn đôi bên. Đáng lẽ ông cần ở vị trí hòa giải, giúp cô Cám biết thương kính chị, thấy được những nỗi khổ của chị là nỗi khổ của mình, hại chị là hại mình vì chị với mình có trong nhau. Ông đừng làm một vị thẩm phán chuyên phán xét ai đúng ai sai, ai thiện ai ác. Ông cần đóng vai trò một vị Bồ tát tìm tới lắng nghe nỗi khổ của mọi người mà hiến tặng những giải pháp chuyển hóa. Ông nên lắng nghe Cám nói: “Con có lỗi khi đã giành giựt tình yêu với chị Tấm. Con cũng có nhu yếu được yêu thương. Nhưng người con thương chưa hề biết thương con. Một lần con giặt áo cho người đó, có con chim đậu trên nhánh cây kế bên bèn cho là chị Tấm! Chứng tỏ, con bị đối xử rất tệ hơn loài chim nữa. Con khổ lắm!”. Ông Tiên cũng có chút lòng từ, nhưng lòng từ của ông còn bị điều kiện hóa nên chưa thể thương yêu rộng hơn. Nếu ông là người có tầm nhìn sâu và biết quán chiếu, thì sự tan nát của một gia đình cô Tấm đã rất khó xảy ra.
Khi cô Tấm hóa thân thành chim Oanh Vàng. Nhưng mỗi lần cất tiếng hót thì người ta có cảm giác ai oán hờn ghen. Tiếng hót đã nhiều phen chọc tức cô Cám: “Giặt áo chồng tao thì giặt cho sạch. Nếu mà không sạch tao rạch mặt ra!”. Bởi vì mình chọc tức người ta, làm người ta phải lo sợ, thì hậu quả đó mình phải lãnh đủ. Nếu là tiếng Ca Lăng Tầng Già, tiếng Khổng Tước, sẽ làm cho người nghe cảm thấy an lành, khổ đau vơi đi và tiếp xúc được cõi Tịnh Độ đang hiển bày. Khi mình giận, nếu cái giận chưa được chuyển hóa, cái giận ấy nó sẽ luân hồi vào chim muông, cây cỏ, đất đá. Khi mình nói lời êm dịu, không gai góc, không thêu dệt, thì năng lượng an lành sẽ thấm nhuần và tỏa chiếu xung quanh. Nếu cô Tấm được ông Tiên khai thị cái thấy này thì không cần phải làm người, không cần phải trả thù, dù làm chim, làm khung cửi, v.v.. cô vẫn thấy hạnh phúc và tránh được nhiều tai nạn.
Thời gian gần đây, những vị làm công tác giáo dục đề nghị viết lại chuyện Tấm Cám. Người ta đặt câu hỏi thiện ác giữa hai chị em cô Cám. Có người phản ứng: “Con Cám nó giựt chồng người ta, chặt cây hại chị, phá hoại môi sinh qua việc giết chim, phá hoại tài sản công dân qua việc đốt khung cửi, bắt cá. Còn bà mẹ kế phải tội đồng lõa, dung túng phạm nhân, nuông chìu con quá đáng để nó làm bậy. Chiếu theo phép nước lệ làng thì hai mẹ con nhà Cám khép vào khung phạt tử là thỏa đáng!”. Ngày nay nhiều quốc gia trên thế giới người ta vận động hủy bỏ án tử hình. Cho phạm nhân được quyền sống nhưng phải chấp nhận hình phạt nô dịch phụng sự. Ở nước mình thì đưa ra giải pháp tạo cảm giác nhẹ nhàng cho phạm nhân trước lúc thụ án tử. Như vậy không có ai làm theo giải pháp của cô Tấm. Nhưng cái giận, cái hận thù vẫn còn nguyên khối. Có người trăn trở: “Cô Tấm vì thù hận mà trả thù người thân của mình thì lòng nhân hậu nằm ở đâu? Người thân của mình mà không tha thứ được thì người ngoài mình đối xử ra sao? Ai phạm pháp thì có pháp luật xử lý. Còn hành vi trả thù như vậy là có tội. Đây là câu chuyện giáo dục về nhân cách đạo đức dành cho thiếu nhi và cả người lớn. Nếu đời sống gia đình, liên hệ xã hội mà giáo dục theo kiểu Tấm Cám thì còn gì là sự sống cao quý nữa!”.
Đọc chuyện Tấm Cám, dù biết là chuyện dân gian truyền khẩu của tầng lớp lao động Việt Nam xưa, nhưng tôi thấy cách xử lý của người xưa sao quá bế tắc. Người ngày nay cũng nhiều bế tắt trong đời sống gia đình. Tình trạng bạo hành gia đình mỗi ngày một nhiều. Nhiều nhất là bạo hành trẻ em. Nếu giáo dục các em phải đồng cảm với cách giải quyết của cô Tấm thì đó là mối lo ngại lớn. Mình cần giúp các em lấy ra khối tủi hờn và tưới tẩm lòng từ bi đi chung với việc kêu gọi lòng thương của các nhà từ thiện. Báo chí, dư luận lên án hành vi bạo hành để cảnh tỉnh mọi người. Đó là cách giáo dục răn đe. Cách thức này chúng ta không mấy thành công bởi vì chỉ giải quyết phần ngọn mà chưa chạm tới phần gốc. Phần gốc là giáo dục nội tâm, giáo dục lòng thương yêu từ con kiến, con sâu, chiếc lá, cọng cỏ, v.v…Giáo dục nội tâm cho con người sẽ hóa giải chứng vô cảm trong xã hội.
Ai cũng tấm tắc khen cô Tấm nhưng ít ai lưu tâm đến một bà cụ từng che chở cho cô trong lúc hoạn nạn. Ngày đó bà cụ đi chợ và nghỉ mát dưới bóng cây thị. Sẵn túi đi chợ, bà đưa lên xin trái nhưng không dùng tay để hái: “Thị ơi! Thị rơi bị bà. Bà để bà ngửi chứ bà không ăn!”. Hái trái cây mà cây ấy thuộc về công cộng nhưng bà vẫn phải thưa xin. Bà hỏi ý kiến của cây vì cây là chủ nhân của trái. Bà biết tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác và có đủ lòng từ bi dù với một quả thị. Nếu bà cụ lừa trái thị rơi vào túi để ăn thì chắc cô Tấm không sống sót. Khi gia đình có nhiều khó khăn thì người ta rất dễ bạo động với nhau. Xã hội có nhiều tham vọng thì xuất hiện bạo hành xã hội, đảng phái, phe nhóm. Tôn giáo tham vọng thì chiến tranh tôn giáo. Quốc gia tham vọng thì khai thác tài nguyên của các nước yếu, lấn đất lấn biển, gây xung đột ý thức dân tộc. Cho nên, cái ham muốn bất chánh nó có mặt ở mọi giai tầng, mọi xã hội. Nó tạo ra những hệ lụy tương xứng với giai tầng và hoàn cảnh xã hội đó.
Sử liệu Phật giáo đã ghi lại những giai thoại thời Bụt. Một lần Bụt cư trú và hành đạo tại quận Medalumpa thuộc vương quốc Sakya, quê hương của Bụt. Lần đó, tình cờ Bụt gặp vua Pasenadi. Vua Pasenadi đã nói với Bụt những lời này: “Thế Tôn! Con là vua thuộc dòng dõi chiến sĩ. Con có quyền giam cầm hoặc chém đầu bất cứ ai nếu con muốn. Nhưng trong một buổi họp mọi người vẫn cướp lời con. Con từng thấy vua chúa chống đối với vua chúa. Tướng sĩ âm mưu chống tướng sĩ. Bà la môn chống bà la môn. Vợ cãi cọ với chồng. Con cãi cọ với cha. Anh em cãi cọ với nhau. Bè bạn thì miệt thị khinh lờn nhau. Nhưng ở đây con thấy các vị khất sĩ sống trong an vui hòa kính. Con không thấy ở đâu có được tình thương yêu như trong giáo đoàn của Người. Bụt chẳng cần quyền uy, chẳng cần gươm giáo, chẳng cần trừng phạt mà người ta lại kính yêu Bụt một cách tuyệt đối.”
Khi vua Ajatasattu cử quan đại thần đến gặp Bụt để báo tin rằng vua sắp tiến binh tấn công nước Vajji. Bụt tiếp quan đại thần Vassakara, đưa ra bảy yếu tố để làm một quốc gia không suy thoái. Đó là chuyên cần hội họp, hòa hợp và đoàn kết, tôn trọng pháp luật đã ban hành, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của các bậc lão thành, không bạo động và hiếp đáp quần chúng, biết bảo vệ tông miếu tổ tiên, tôn kính các bậc chân tu đạt đạo. Giới lãnh đạo quốc gia ở Vajja đã từng có dịp nghe và thực hành những lời dạy này nên Vajja rất cường thịnh khó đánh chiếm được. Nhưng với vị cận thần tham mưu cho vua Ajatasattu lại đưa ra một âm mưu khác là tìm cách chia rẽ giới lãnh đạo trong nội bộ Vajja. Đã cường thịnh như quốc gia Vajja nhưng cuối cùng cũng bị Magadha xâm chiếm. Vì trong giới lãnh đạo và quần chúng Vajja cũng sẽ có người đi theo khuynh hướng tham nhũng về ngũ dục.
Vị tham mưu của vua Ajatasattu cho rằng chỉ cần nước Vajja tồn tại một yếu tố bất thối này cũng rất khó đánh chiếm. Điều này cũng có nghĩa; chỉ cần đánh mất một yếu tố mà Bụt đưa ra trong bảy yếu tố xây dựng quốc gia, cũng là điềm tai họa lớn. Cũng bằng bảy yếu tố bất thối, một cá nhân có thể thực tập để đưa mình về hướng giải thoát. Giải thoát trước hết là giải thoát lòng thù hận đang có mặt trong lòng. Chỉ cần áp dụng tôn trọng pháp luật đã ban hành, người ấy không dám phạm pháp dù tình trạng của mình có thế nào đi chăng nữa. Tôn trọng và hành trì năm giới, nhất là giới thứ nhất (không sát sinh - tôn trọng và bảo vệ sự sống) người ấy sẽ sống trong sự che chở của giới mà không làm nô lệ cho những tâm hành ác. Thực tập không bạo động là biết tự chủ lấy nội tâm mình, biết chăm sóc những cảm xúc, biết lắng nghe và nhìn sâu những diễn biến trong tâm, để thiết lập sự bình an vững chãi. Bảy phương pháp bất thối, giúp thân tâm người ấy đi lên hướng tới an lành.
“Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tánh mạng của ai, đừng ai vị giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị khổ đau và khốn đốn”. Chúng ta cùng nguyện cầu cho nỗi buồn Tấm Cám ngày nay được chuyển hóa.