Đạo Phật Ngày Nay

Vài nét về Kim Cang thừa

Trong lịch sử Phật giáo Ấn Ðộ, vua In-drabhūti là người có cống hiến rất lớn cho sự hưng thạnh Kim Cang thừa. Trước tác của ông gồm có Trí tuệ thành tựu (Jñānasiddhi) và Phái tính lực của Ấn Ðộ giáo (Sāktāḥ), cả hai tác phẩm ðều có quan hệ sâu sắc với Mật giáo...

Kim Cang thừa còn gọi là Ðãn-đặc-la phái (Tāntrika), hay Mật giáo, là một trường phái tu học có ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo, hoặc là một loại hình Phật giáo bị biến thái vì những lý do nội tại lẫn ngoại tại, một trường phái hình thành từ những vay mượn giáo lý Phật giáo và những tín ngưỡng dân gian cùng những tôn giáo ngoại đạo khác, tạo thành một hệ thống tín ngưỡng phức tạp, xa rời Phật giáo chính thống.

Kim Cang thừa hay Mật giáo lấy Mật pháp và Chú pháp của Veda trong Hậu kỳ Bà-la-môn giáo làm ý nghĩa trọng yếu, hình thành vào khoảng thế kỷ đầu Tây lịch, đến thế kỷ thứ V, thứ VI Tây lịch lại hình thành thêm Ấn khế (mudrā) và Mạn-đà-la (maṇḍala).

Cở sở để Mật giáo xác lập là kinh Ðại Nhật và kinh Kim Cang Ðỉnh xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ thứ VII Tây lịch. Bấy giờ, Mật giáo lấy Ðại Nhật Như Lai (Mahāvaircana) làm chủ và thêm vào hệ thống tín ngưỡng những nhân vật Ðại Uy Ðức Minh Vương (Yamāntaka), Bất Không Quyến Sách Quán Âm (Amogha-pāśa) làm chư tôn đặc hữu, đồng thời vay mượn giáo lý Phật giáo truyền thống và những chư tôn của Bà-la-môn giáo kết hợp tổ chức thành hệ thống hóa Mạn-đà-la, chế định các nghi thức, sử dụng Ấn khế và Minh chú để tổ chức trong các nghi quỹ.

Kinh Ðại Nhật dẫn dụng hệ thống kinh Hoa Nghiêm, thuyết giáo “ngay nơi sự là chân, ngay đây là đạo”, và y cứ tư tưởng Bát-nhã và đại bi làm phương tiện, bao dung nhiếp thủ toàn bộ tín ngưỡng Bà-la-môn giáo và các loại tín ngưỡng dân gian khác.

Kinh Kim Cang Ðỉnh thì y cứ vào thuyết tâm thức của Du-già hành phái để tổ chức thành, nhưng cũng đồng thời khẳng định tư tưởng ái dục là đại lạc (mahāsukha).

Cả hai bộ kinh trên đều không đồng quan niệm và khuynh hướng của Phật giáo Ðại thừa thời kỳ sau này mà nghiêng nặng về tính thừa nhận thật tướng của sự vật hiện tượng ngay nơi đương thể, đồng thời du nhập các tín ngưỡng của Ấn Ðộ giáo (tức bao dung các tôn giáo dân gian và Bà-la-môn thời kỳ phục hưng).

Sau khi tư tưởng Mật giáo hưng long, nó đã hình thành ra hai trường phái là Hữu đạo Mật giáo (Chân Ngôn thừa) và Tả đạo Mật giáo (Kim Cang thừa).

Hữu đạo Mật giáo lấy kinh Ðại Nhật làm trung tâm để lý luận hóa hệ thống Mật giáo. Tả đạo Mật giáo thì kế thừa hệ thống tư tưởng kinh Kim Cang Ðỉnh, phát triển thành hệ thống Mật giáo có xu hướng thực tế.

Về sau, Chân Ngôn thừa chưa có sự phát triển gì, mà Kim Cang thừa thì đã dựa vào sự kết hợp với Ấn Ðộ giáo nên phát triển cực kỳ hưng thạnh, thậm chí, đến thế kỷ thứ X trở đi, trường phái này cơ hồ ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống tổ chức Phật giáo Ấn Ðộ.

Trong lịch sử Phật giáo Ấn Ðộ, vua In-drabhūti là người có cống hiến rất lớn cho sự hưng thạnh Kim Cang thừa. Trước tác của ông gồm có Trí tuệ thành tựu (Jñānasiddhi) và Phái tính lực của Ấn Ðộ giáo (Sāktāḥ), cả hai tác phẩm ðều có quan hệ sâu sắc với Mật giáo. Trong đó, phái tính lực chính là tín ngưỡng sùng bái nữ thần Durgā và chuyển biến thành tín ngưỡng sùng bái Tính lực (śakti) của nữ thần ấy, rồi sau phát triển thành tông phái chủ trương chủ nghĩa nhục dục, lấy đó làm phương pháp tu hành. Chủ nghĩa nhục dục này, tuy nhiên, lại mang đầy đủ khuynh hướng dâm dục nồng hậu, nhưng vốn bị người dân Ấn Ðộ từ chối tiếp nhận, cho đến khi Kim Cang thừa hưng thạnh thì nhanh chóng phổ biến ở địa phương và lan sang các khu vực Orissa, Bengal.

Từ thế kỷ thứ VIII trở đi, Kim Cang thừa lại được vương triều Pāla ủng hộ, giáo đoàn lại phát triển hưng thạnh hơn, cơ hồ ảnh hưởng khắp cõi Ấn Ðộ.

Sáng lập vương triều Pāla là Gopāla (Cù-pa-la). Ông lập chùa Odantapuri (Ô-đan-đa-phú-lê tự) ở tại trung tâm thủ đô. Con trai của ông là Dharmapāla (Ðạt-ma-pa-la – Hộ Pháp) kiến tạo chùa Vikramaśīla (Siêu Giới tự) ở bên bờ sông Hằng. Cả hai ngôi chùa này đều là đạo tràng căn bản của Kim Cang thừa. Trong đó, chùa Siêu Giới hưng thạnh đến thế kỷ thứ XIII thì bị Hồi giáo tiêu diệt.

Thời đại của Devapāla, Kim Cang thừa đã kết hợp với phái Tính lực của Ấn Ðộ giáo, tạo nên sự hưng thạnh và ra đời nghệ thuật Tantra.

Bí mật tập hội (Tathāgata-guhyaka) và Thành tựu pháp man (Sādhanamālā) là những tác phẩm mang tính đại biểu cho truyền thống Kim Cang thừa, và nó cũng đáp ứng được nhu cầu của thời đại. Truyền thống này, lúc đầu cũng lấy việc thực hành thiền định và quán tưởng làm chính, nhưng sau đó dần dần chuyển sang sử dụng chân ngôn (mantra) và dương-đặc-la (yantra – một dạng đồ hình giống mạn-đà-la), một phương pháp thực hành phóng túng tính nhục thể và lạc vật hết sức mạnh mẽ, mượn sự khoái lạc của nhục thể để đạt đến cảnh giới bí mật, cho đó là cảnh giới thù thắng, ra khỏi thế gian (siddhi).

Kim Cang thừa hình thành một cách có hệ thống là nhờ giáo nghĩa Thời luân phái, Kāla-cakra-vāda. Thời luân phái đem ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai xếp vào mê giới, và gọi tên là Thời luân, đề xướng muốn giải thoát khỏi Thời luân, tức mê giới, cần phải y cứ vào tư tưởng của Phật bản sơ (Adi-buddha), siêu việt không gian và thời gian. Phật bản sơ chính là Kim Cang tát-đỏa. Giáo nghĩa của Thời luân, ngoài cơ sở triết lý của Tính lực phái Ấn Ðộ giáo, còn có sắc thái của Tì-thấp-nô phái (Vaiṣṇava) và Du-già phái.

Sở dĩ Kim Cang thừa dung hợp với Ấn Ðộ giáo là bởi phù hợp với nhu cầu xã hội thời bấy giờ, mà căn nguyên có thể nói là do sự xâm lược của Hồi giáo. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ thứ XIII, khi Hồi giáo tiêu hủy chùa Siêu Giới, giết hại Tăng Ni, Kim Cang thừa hầu như không còn phát triển ở Ấn Ðộ.

Học giả uyên bác của Kim Cang thừa là Liên hoa sanh (Padma-sambhava). Liên hoa sanh xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ VIII, từng sang Tây Tạng khai sáng Lạt-ma giáo. Sau thời Liên hoa sanh, có các học giả Bất nhị Kim cang (Advayavajra), Bảo tích tĩnh (Ratnākaraśānti), Bát-nhã-già-la-mạt-đề (Prajñākaramati), Na-lạc-ba (Nāropa)... nối tiếp nhau xuất hiện ở Siêu Giới tự. Ðến thế kỷ thứ XI, xuất hiện một đại học giả uyên thâm cả hai lĩnh vực Hiển và Mật giáo là Atīśa, người này có một vị trí vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành giáo phái Lạt-ma ở Tây Tạng.

Hậu kỳ Mật giáo đã lấy tính chất ưu việt của Kim Cang để dụ cho Tánh không (Śūnyatā) và cho đó là chân lý tối cao. Thậm chí, Mật giáo còn chế tác chày kim cang năm cạnh (ngũ cổ kim cang) để làm vật tượng trưng cho năm trí của Như Lai (Như Lai ngũ trí). Về sau, người ta còn thêm nhiều khái niệm cho Kim cang, tạo nên nét đặc trưng cho nền triết học độc đáo của Mật giáo, thỏa mãn nhu cầu thực tế phát sinh từ cuộc sống của người dân địa phương. Cái được gọi là “Kim Cang thừa”, trên thực tế, nó cũng hàm chứa những giáo lý cao siêu và hàm đủ những tính chất của Phật giáo Ðại thừa. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu nghiêm túc kinh điển của Mật giáo Ấn Ðộ về những Nghi quỹ và Tantra, rồi so sánh nó với những gì mà Kim Cang thừa trình bày trong kinh Kim Cang Ðỉnh thì thấy mối quan hệ rất rõ ràng về văn hiến cũng như hệ thống tư tưởng giữa Ðãn-đặc-la giáo và Kim Cang thừa.

Lã Trừng, tác giả cuốn Ấn Ðộ Phật học nguyên lưu lược giảng, trong phần nói về Mật giáo đã viết rằng: Mật giáo bắt đầu hình thành từ thế kỷ thứ VII, đến thế kỷ thứ VIII trở đi thì có tính chất tương đồng với Ấn Ðộ giáo và có khuynh hướng ly khai Phật giáo, gọi là Tả đạo. Về sau, sự phát triển của Mật giáo càng hưng thịnh thì càng xa rời Phật giáo, đặc biệt xa rời Phật giáo là chủ trương Tính dục của hệ thống Du-già, gọi là Tả đạo du-già. Ðiều gay cấn là, mặc dù thoát ly Phật giáo, Mật giáo vẫn giảng giải giáo lý Bát-nhã, khổ, không... chủ trương Không tính, đồng thời cho rằng Không tính giống như Kim cang, không thể biến hoại. Với chủ trương này, Mật giáo đã làm cho mình khác biệt với truyền thống Phật giáo Nguyên thủy lẫn Ðại thừa, và tự xưng mình Kim Cang thừa.

Cũng theo Lã Trừng, từ khi vương triều Pāla (Pala Dynasty) kiến lập chùa Siêu Giới vào thế kỷ thứ XI, XII để dành riêng cho Mật giáo hoạt động, thì từ đó về sau, Mật giáo Kim Cang thừa lại có thêm nhiều biến hóa. Nó đã từ từ thâm nhập vào dân gian chứ không còn tập trung ở tự viện nữa. Hệ thống giáo lý thì ngày càng thế tục hóa và chẳng có quy luật gì cả, rất đơn giản, dễ thực hành, cho nên một thời người ta đã gọi tông phái này là Dị Hành thừa. Nói “dễ thực hành” là để phân biệt với thực tiễn giáo lý Phật giáo rất khó thực hành. Những người chủ trương Mật giáo đã lý luận rằng, phương pháp tu học Phật giáo quá khó, dân chúng không dễ gì tiếp nhận và càng khó thực hành rộng rãi, do đó cần phải lựa chọn những phương pháp dễ thực hành để truyền bá Phật pháp. Kỳ thật, phương pháp tu học để thành Phật của Mật giáo Kim Cang thừa quả nhiên là đõn giản với chủ trương “Thân này chính là Phật”, sự thành Phật ấy cũng giống như cảnh giới “khoái lạc” của con người bình thường. Nên nhớ, sự “khoái lạc” mà họ nói đến đây không liên quan gì với sự cảm nghiệm hạnh phúc được Phật giáo nói đến trong ý nghĩa thường, lạc, ngã, tịnh – bốn tính chất của Niết-bàn. Họ chủ trương rằng, “khoái lạc” là cảnh giới cực điểm trong quan hệ tính dục giữa nam và nữ, cho nên phương pháp Du-già của họ tất nhiên cần phải có sự phối ngẫu với một đồng nữ, gọi là “Thủ ấn” (mudrā – mà thực chất là nơi dâm ô trụy lạc). Chính vì phương pháp tu học đơn giản như vậy nên sau khi đề xướng không bao lâu thì khắp nơi từ Đông sang Tây, đại bộ phận xã hội, nhất là tầng lớp quần chúng ngu muội, đã hoan hỷ tiếp nhận và lưu truyền rộng rãi, nhanh chóng.

Tuy nhiên, trong quá trình lưu truyền, hình thức cũng có nhiều biến hóa. Cụ thể là, Kim Cang thừa đã tự viết kinh điển riêng cho truyền thống của mình, gọi là Tantra, trong đó trình bày những nghi quỹ (cách thức sử dụng những gì để cúng dường Bổn tôn, cách thức sử dụng Chú ngữ ra làm sao...)... rất phức tạp.

Ðến thời kỳ Dị Hành thừa thì người ta không tôn trọng kinh điển nữa mà tôn kính tôn sư, tôn xưng người thầy dẫn đường của họ là thượng sư, đạo sư. Họ cho rằng, chỉ cần y cứ theo sự chỉ dẫn của đạo sư mà thực hành thì sẽ thành tựu. Lời dạy của đạo sư thường là một loại thi ca, hoặc gọi là “Khúc nhạc Kim cang”. Văn tự ngôn ngữ loại thi ca này đa phần là khó hiểu, mười phần bí ẩn, mờ mịt cả mười, cho nên người ta gọi là “Văn học mật ngữ”. Ở Tây Tạng còn rất nhiều bản dịch của loại văn học này. Ở Nepal còn lưu lại rất nhiều nguyên bản và một số văn bản bị chỉnh sửa khi tái bản. Cho nên, phương pháp tu tập của Mật giáo không những từ từ biến hóa, đổi thay, mà ngay cả kinh sách làm cơ sở cho tín ngưỡng phụng thờ cũng có biến hóa thay đổi.

Như đã nói trên, Mật giáo phát triển đến thời kỳ cuối cùng còn hình thành thêm một hình thái nữa, gọi là Thời Luân thừa. Thừa này đặc biệt tôn sùng đức Phật bản sơ. Thừa này cho rằng, trước đức Phật Thích-ca còn có đức Phật đầu tiên, đó vị Phật tối sơ mà từ đó phát sinh ra tất cả chư Phật. Ðồng thời, đối với sinh lý của con người, Thời Luân thừa có rất nhiều công trình nghiên cứu, để rồi từ đó đề xướng phương pháp Du-già nhằm khống chế nội bộ thân thể, gọi là “ngọn gió duy trì sinh mạng”. Bằng phương pháp, họ nghĩ rằng, có thể khiến cho sinh mạng của con người không bị ảnh hưởng với dòng chuyển động của thời gian, đạt được trường thọ, cho đến có thể thoát thai, đổi cốt, biến thân người thành thân Phật. Có thể nói, đây là giai đoạn phát triển cuối cùng của Mật giáo.

Như vậy, kể từ triều đại Pāla, trải qua 200 năm, là giai đoạn phát triển của Mật giáo. Trong quá trình phát triển, Mật giáo hình thành hai truyền thống. Một truyền thống lấy chùa viện làm trung tâm (như đại học Nalanda, chùa Siêu Giới), họ cũng bàn luận giáo lý, đem giáo lý Mật giáo trộn lẫn với giáo lý của Hiển giáo. Chẳng hạn, Sư Tử Hiền (Haribhadra hoặc Simhabhadra) - chính là quốc sư của thời đại Devapāla – đã đề xương Bát-nhã. Ông là một nhân vật quan trọng của Mật giáo. Ðệ tử của ông là Giác Trí Túc (Buddhajnanapala), người kế thừa tư tưởng của thầy mình, đem Bát-nhã và Mật giáo trộn lẫn với nhau để giảng. Ðến nửa cuối thế kỷ XI, ở chùa Siêu Giới vẫn còn một vị danh tiếng là Atiśa. Ông này đã từng đến Tây Tạng để phục hưng Phật giáo (vì Phật giáo Tây Tạng có một thời bị phá hoại). Atiśa cũng là người giảng thông suốt hai giáo Hiển và Mật.

Ngoài hệ thống truyền thừa từ chùa viện, trong dân gian còn có một hệ thống truyền thừa khác, là một loại Mật giáo đã được thông tục hóa mà tình hình, nội bộ của nó vô cùng phức tạp. Môn nhân đời sau đã tập hợp và xây dựng nên một hệ thống Ðại sư thành tựu đắc pháp Mật giáo, tổng cộng có 84 ngýời, trong đó mỗi nhân vật có mỗi nhân cách riêng biệt, thậm chí họ cũng đem các vị Tổ sư như Long Thọ, Ðề-bà vào trong dòng truyền thừa này, ngoài ra là những nhân vật thuộc mọi giai tầng trong nhân gian. Họ cũng xây dựng những câu truyện về 84 vị đại sư, gán cho những đại sư những tác phẩm Tán ca v.v... và v.v... Chúng ta có thể thấy trong những tư liệu này về những nhân vật và cách thức truyền giáo của Mật giáo.

Bình luận