Xưng hô trong văn hóa giao tiếp Phật giáo Nam bộ
Bài viết này là một cố gắng nhằm cung cấp thông tin về một hệ thống từ xưng hô, đồng thời thử xác định những đặc trưng văn hóa trong cách sử dụng hệ thống ngôn ngữ này trong hoạt động giao tiếp của cộng đồng Phật giáo Bắc tông Nam Bộ. Hy vọng sẽ mang đến cho những ai quan tâm một số thông tin hữu ích.
1. Xưng hô trong quan hệ với người xuất gia
Trước hết là trong quan hệ thầy - trò. Nếu như trong gia đình mối quan hệ cha/mẹ - con cái chủ yếu bắt đầu từ khi người con ra đời thì trong các ngôi chùa Nam Bộ, quan hệ thầy - trò bắt đầu từ khi người học trò tự nguyện lãnh thọ giới pháp từ người thầy của mình.
Về phía người học trò, trong trường hợp nếu thầy của họ là tu sĩ nam thì họ gọi người thầy là thầy. Đây là cách gọi phổ biến từ trước tới nay trong Phật giáo Nam Bộ. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, họ cũng có thể gọi thầy của mình là sư phụ, do tác động cách xưng hô của người Trung Hoa. Tuy nhiên, ở Nam bộ, từ sư phụ chỉ sử dụng trong trường hợp người học trò gọi thầy của họ, nó mang sắc thái thân mật chứ không giống như từ sư phụ của người Trung Quốc có xu hướng thiên về sự kính trọng. Hơn nữa, ở Trung Hoa, bất kỳ ai cũng có thể gọi một tu sĩ là sư phụ. Nếu thầy của họ là tu sĩ nữ thì ngoài hai cách gọi thầy và sư phụ ra, họ còn gọi thầy của mình là sư cô.
Mặt khác, nếu trong gia đình, khi người con nói chuyện với cha mẹ, họ có thể kèm theo các thán từ như à, ơi, nhé…để thể hiện tình cảm của mình, nhưng trong Phật giáo, người học trò không bao giờ gọi thầy mình như thế.
Tương tự, về phía người thầy, dù nam tu sĩ hay nữ tu sĩ họ đều gọi học trò của mình bằng con hoặc bằng pháp danh và tự xưng mình là thầy, sư phụ hoặc sư cô (nếu họ là nữ tu sĩ). Đôi khi cũng xưng tôi nhưng ít phổ biến. Tuyệt đối không bao giờ dùng các từ ngữ có tính cách gọi yêu để gọi học trò của mình như cách gọi trong gia đình. Đây là nét văn hóa truyền thống trong cách xưng hô của Phật giáo không chỉ ở Nam Bộ mà còn thấy ở nhiều vùng khác trong nước.
Trong quan hệ huynh đệ (cho Tăng sĩ), tỷ muội (cho chư Ni), tùy theo thời điểm xuất gia mà xưng hô với nhau. Người nào xuất gia thọ giới trước là sư huynh, hay sư tỷ; người nào xuất gia thọ giới sau là sư đệ hay sư muội và cứ theo đó mà xưng hô với nhau. Đây là cách xưng hô mang dấu ấn của văn hóa Trung Hoa. Tuy nhiên, hiện nay, ở nhiều chùa ở Nam Bộ đã xuất hiện cách xưng hô mới nhằm hướng tới việc thoát ly ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa trong giao tiếp. Thay vì xưng hô sư huynh, sư tỷ, sư đệ, sư muội hoặc xưng hô bằng pháp danh như đã đề cập thì người ta thay vào đó bằng cách xưng hô sư anh, sư chị, sư em. Mặc dù xuất hiện khá muộn, nhưng cách xưng hô này nghe giản dị và gần gũi hơn cách xưng hô trước đây rất nhiều. Sự giản dị và gần gũi này có lẽ là do yếu tố tình cảm của các từ xưng hô như anh, chị, em trong tiếng Việt mang lại. Tuy nhiên, cách xưng hô này còn khá mới mẻ và chưa được phổ biến trong đời sống giao tiếp Phật giáo Nam Bộ.
Nếu như trong giao tiếp gia đình người Việt, người ta có thể tùy theo hoàn cảnh, không gian và thời gian mà thay đổi cách xưng hô [Trần Ngọc Thêm 2006: 284] thì trong Phật giáo cũng thế, cách xưng hô cũng có thể thay đổi linh hoạt miễn sao thể hiện được hòa khí và thể hiện được tinh thần tu học thực chất của người tu sĩ thì được xem là chuẩn mực. Chẳng hạn như, người xuất gia sau nhưng lớn tuổi sẽ không gọi người xuất gia trước quá nhỏ tuổi theo vai vế mà gọi bằng chú hay cô theo nghĩa là người nhỏ tuổi xuất gia (chú tiểu/ni cô) và tự xưng với người đó là tôi hoặc pháp danh. Hòa khí vui vẻ nhưng tuyệt đối không hướng đến một quan niệm duy tình như giao tiếp trong gia đình mà tác giả Hữu Đạt đã từng đề cập đến trong Công trình Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt . Đó là chuẩn mực trong giao tiếp của người xuất gia nói chung và cộng đồng xuất gia ở Nam Bộ nói riêng.
Trong quan hệ sư ông - sư cháu cũng có những chuẩn mực riêng biệt. Người sư cháu gọi vị thầy của thầy mình là sư ông và tự xưng mình là con, tuyệt đối không xưng bằng pháp danh. Còn vị sư ông đó gọi sư cháu của mình bằng con hoặc pháp danh và tự xưng mình là sư ông, đôi lúc xưng là thầy, nhưng cách xưng thầy là một cách xưng thiếu chuẩn mực.
Đối với tu sĩ nữ thì cách xưng hô cũng tương ứng như thế nhưng thay từ sư ông bằng sư bà. Ở miền Bắc, từ sư ông cũng được sử dụng, nhưng không hàm nghĩa như ở Nam Bộ mà chỉ có nghĩa là một thầy Tỳ kheo bình thường. Ở miền Trung, người ta không gọi người ở vai vế này bằng sư ông mà gọi là sư ôn hoặc đơn giản bằng ôn.
Trong mối quan hệ sư bác / sư chú - sư cháu thì người tu sĩ có vai vế nhỏ hơn gọi người tu sĩ có mối quan hệ huynh đệ với thầy của mình là sư bác hoặc sư chú, tùy theo vai vế của vị tu sĩ đó là sư huynh hay sư đệ của thầy mình, và tự xưng mình với người ấy là con. Ở miền Bắc, từ sư bác dùng để gọi những tu sĩ nam chưa thọ giới cụ túc. Còn từ sư chú thì dùng để gọi những người nhỏ tuổi mới xuất gia.
Trong quan hệ bạn bè, người xuất gia thường xưng hô với nhau bằng pháp danh hoặc xưng hô thầy - tôi / huynh - tôi / pháp danh. Đôi khi cũng xưng hô là thầy - con, thậm chí là thầy - mình, nhưng cách xưng hô này thiếu chuẩn mực và không phổ biến.
Đối với những tu sĩ nữ, cũng tương tự như thế, chỉ thay đổi từ thầy bằng cô. Trong nhiều trường hợp họ xưng hô với nhau là huynh - tôi, bà - tôi… Đây là cách xưng hô thiếu chuẩn mực không được khuyến khích trong giao tiếp Phật giáo Nam bộ.
2. Xưng hô trong quan hệ với Phật tử tại gia
Trước hết là xưng hô trong quan hệ với Phật tử tại gia. Tùy trường hợp cụ thể mà người xuất gia có nhiều cách gọi Phật tử tại gia bằng nhiều cách khác nhau. Thông thường, người xuất gia gọi Phật tử là con hay bằng pháp danh và tự xưng mình là thầy, sư cô hoặc tôi hay chúng tôi. Ít có vị nào tự xưng mình bằng giáo phẩm. Trong những trường hợp khác có thể sử dụng các từ xưng hô trong gia đình người Việt như anh, chị, cô, chú, bác… kết hợp với pháp danh để gọi và tự xưng là tôi, chúng tôi hoặc thầy hay sư cô tùy theo giới tính của người xuất gia. Danh từ Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di chỉ cho Phật tử tại gia nam và nữ rất ít được sử dụng. Đối lại, Phật tử tại gia thường gọi người xuất gia bằng thầy, sư cô hoặc sư phụ, kể cả đối với tu sĩ nữ, nếu như người đó là thầy truyền giới cho họ. Trong trường hợp người xuất gia còn nhỏ, chưa thọ giới cụ túc thì Phật tử thường gọi họ bằng chú / cô hoặc chú / cô kèm theo pháp danh và tự xưng mình là con / chúng con, đôi khi dùng tôi / chúng tôi.
3. Xưng hô trong mối quan hệ với người ngoài tôn giáo
Trong quan hệ với người ngoài tôn giáo, tùy theo tuổi tác mà người xuất gia sử dụng các từ xưng hô trong gia đình như ông, bà, anh, chị, cô, chú… để gọi họ và tự xưng bằng tôi / chúng tôi. Đôi khi từ thầy cũng được sử dụng để tự xưng nhưng không phổ biến, nhất là với người ít quen biết. Ngoài ra, người xuất gia còn sử dụng các từ như đạo hữu, thí chủ... để gọi những người này, tuy nhiên từ đạo hữu được dùng thường xuyên hơn. Còn người ngoài thường gọi người xuất gia bằng thầy / cô tùy theo giới tính. Có một số ít trường hợp, những người ngoài tôn giáo gọi những người xuất gia bằng sư do không phân biệt được tông phái trong Phật giáo. Đây là cách gọi chưa chuẩn mực, bởi vì, ở Nam Bộ người ta chỉ gọi các nhà sư thuộc hệ phái Nguyên thủy (Theraveda), và phái Khất sĩ là sư mà thôi.
Một số trường hợp, đặc biệt là đối tượng trẻ em, họ còn gọi các nhà sư bằng thầy chùa, đôi khi kèm theo đó là những thái độ khiếm nhã. Tuy nhiên, cách gọi này chỉ là những trường hợp cá biệt. Trên thực tế, dù người ta không theo đạo Phật nhưng trong xưng hô, người ta vẫn gọi những người xuất gia bằng những danh xưng tôn quý. Đó là nét đẹp trong văn hóa giao tiếp của người Việt Nam mà dấu ấn của nó có thể tìm thấy trong rất nhiều bối cảnh giao tiếp khác nhau trong xã hội Việt Nam.
4. Xưng hô trong một số không gian lễ - hội đặc thù
Trong một số lễ hội Phật giáo đặc thù, người xuất gia thường xưng hô với nhau bằng giáo phẩm và đôi khi kèm theo pháp danh. Chẳng hạn như gọi vị thầy nào đó bằng Đại đức A, Thượng tọa B, Hòa thượng C và tự xưng là con / tôi tùy theo giáo phẩm của người giao tiếp. Đối với những vị trụ trì có giáo phẩm Thượng tọa / Ni sư hay Hòa thượng / Ni trưởng, phần lớn người ta tránh gọi trực tiếp pháp danh của họ mà thay bằng cách gọi tên chùa, tự viện, hoặc gọi theo cách thượng + A hạ + B. Chẳng hạn, gọi Hòa thượng Tâm Giác là Hòa thượng thượng Tâm hạ Giác. Danh xưng Hòa thượng đôi khi còn kết hợp với từ Đại lão hay Trưởng lão để gọi những Hòa thượng trên 80 tuổi. Cách xưng hô này thể hiện sự kính trọng của người gọi đối với những bậc trưởng thượng trong Phật giáo.
Trong các giới đàn dành cho tu sĩ, ngoài các từ xưng hô thường thấy như Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức ra còn có các danh từ như Tôn chứng, Giáo thọ, A-xà-lê…
Như vậy, so với cách xưng hô trong các trường hợp khác thì cách xưng hô trong giới đàn thiên về tính nguyên tắc hơn. Tính nguyên tắc này là do giới luật Phật giáo quy định. Và chính vì vậy, ít nhiều nó đã góp phần củng cố thêm cho cộng đồng Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo Bắc tông Nam Bộ nói riêng tinh thần sống theo nguyên tắc giới luật Phật định.
Ngoài ra, một số từ xưng hô mang tính chuyên biệt cũng xuất hiện trong giao tiếp của cộng đồng Phật giáo như: kinh sư, pháp sư, giảng sư, giáo thọ sư… Mỗi từ như thế đều gắn liền với chuyên môn, sở trường và bối cảnh giao tiếp của từng đối tượng cụ thể. Chẳng hạn như từ pháp sư, giảng sư chỉ dành riêng để gọi những tu sĩ chuyên giảng kinh và chỉ xuất hiện trong không gian diễn ra các hoạt động giảng thuyết đó mà thôi. Từ kinh sư thì dùng để gọi những tu sĩ thực hiện các nghi lễ, nhạc lễ trong Phật giáo. Trước đây, từ kinh sư gắn liền với triều đình phong kiến. Đó là danh xưng chỉ riêng những tu sĩ chuyên lo việc tụng kinh, cúng bái trong triều đình. Nhưng khi những hình thức cúng nhạc lễ này xuất hiện trong nhân gian thì ý nghĩa của nó cũng thay đổi. Từ giáo thọ sư thì để gọi các vị chuyên đảm trách công tác giáo dục. Cách gọi này có nguồn gốc từ cách gọi trong hệ thống giáo dục Trung Hoa. Tuy nhiên, ở Trung Hoa, người ta chỉ gọi những người làm công tác giáo dục là giáo thọ còn ở Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng gọi là giáo thọ sư.
Tất cả các danh xưng trong mục này chủ yếu mang tính chức năng và chỉ tồn tại trong không gian diễn ra các hoạt động giao tiếp đặc thù, tách khỏi bối cảnh, người ta thường không còn sử dụng theo cách đó nữa mà thay bằng cách xưng hô bình thường, tùy theo các mối quan hệ.
THAY LỜI KẾT
Nhìn chung, xưng hô trong Phật giáo Nam Bộ tương đối phức tạp. Tính phức tạp này có lẽ là do sự phong phú của hệ thống từ xưng hô trong tiếng Việt khi nó trực tiếp đi vào hệ thống từ xưng hô Phật giáo.
Bên cạnh đó, với tư cách là thành tố của văn hóa Việt Nam, văn hóa Phật giáo Nam Bộ ít nhiều mang đặc trưng của văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa Nam Bộ nói riêng. Do đó, cách xưng hô trong Phật giáo Nam Bộ, bên cạnh phản ánh nguyên tắc tôn trọng tuổi đạo, còn kế thừa tính linh hoạt trong văn hóa ứng xử của dân tộc.
Cuối cùng, mặc dù đã tiếp biến Phật giáo Trung Hoa, nhưng nhìn chung xưng hô trong Phật giáo Nam Bộ chịu ảnh hưởng ít nhiều cách thức xưng hô của Phật giáo Trung Hoa. Tuy nhiên, ảnh hưởng này không đủ sức để làm mất đi các nét đặc thù trong cách xưng hô của Phật giáo Nam Bộ. Điều đó thể hiện ở chỗ, Phật giáo Nam Bộ đã từng Việt hóa các danh xưng này bằng các danh xưng sư anh, sư chị, sư em… Thậm chí, trong nhiều trường hợp sử dụng yếu tố xưng hô của Trung Hoa nhưng ý nghĩa đã bị thay đổi. Điều đó mới biết rằng sức mạnh của văn hóa truyền thống có vai trò to lớn như thế nào tới việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc chung và văn hóa Phật giáo Nam Bộ nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hữu Đạt 2000: Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt. – HN: NXB Văn hóa Thông tin.
2. Trần Ngọc Thêm 2006: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. – Tp. HCM: NXB Tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.
3.Thích Như Điển: http://www. lebichson.org/Phatphap/05ACachXungHo.htm
Chú thích:
1Người xuất gia khi đã vào chùa đều có tên gọi riêng, tên gọi đó gọi là pháp danh.
2Thích Như Điển: Cách xưng hô trong chùa. http://www.lebichson. org/Phatphap/05ACachXungHo.htm