Vô Thường
Ngày đêm cứ mãi xoay vần, vạn vật cứ thế mà chuyển biến, đổi thay không ngừng. Lặng nhìn chiếc lá khẽ rơi trước cơn gió, lòng chợt bâng khuâng, ngậm ngùi khi nghĩ về thân phận con người, liệu có giống như chiếc lá kia không?. Khi đứng trước những khó khăn, thử thách của cuộc đời tâm của chúng ta sẽ như thế nào?. Nương theo lời dạy của Phật, Tổ mỗi một hành giả sẽ hiểu rõ hơn về ý nghĩa của Vô Thường.
Vô thường có nghĩa là gì?. Vô thường nghĩa là không thường, không mãi mãi ở yên trong một trạng thái nhất định, luôn luôn thay hình đổi dạng, đi từ trạng thái hình thành biến đi rồi tan rã... Đạo Phật gọi những giai đoạn thay đổi của một vật là : thành, trụ, hoại, không ( hay sanh, trụ, dị, diệt). (1)
Vô thường được biểu hiện ở ba phương diện : Thân vô thường, Tâm vô thường và Hoàn cảnh vô thường.
Thân vô thường : thân thể con người do bốn yếu tố : đất, nước, gió, lửa giả hợp mà tạo thành, vốn không có chủ thể nhất định, một khi nhân duyên tan rã thì mạng sống liền kết thúc, chẳng được lâu bền.
Khi nhắc đến sự vô thường của thân, đức Phật đã hỏi một vị Sa môn : “Sinh mạng của con người tồn tại bao lâu?”. Đáp rằng : “Trong vài ngày”. Phật nói : “Ông chưa hiểu đạo”. Đức Phật lại hỏi một vị Sa môn khác : “Sinh mạng con người tồn tại bao lâu?”. Đáp : “Khoảng một bữa ăn”. Phật nói : “Ông chưa hiểu đạo”. Đức Phật lại hỏi một vị Sa môn khác nữa : “Sinh mạng con người tồn tại bao lâu?”. Đáp : “Khoảng một hơi thở”. Phật khen : “Hay lắm! Ông là người hiểu đạo”. (2)
Thật vậy, thân mạng của chúng ta chỉ duy trì trong hơi thở, một hơi thở ra mà không thở vào, thì chuyển thân qua đời sau, rất mong manh, tạm bợ, tựa như sợi chỉ mành. Thế nhưng mấy ai thấu hiểu được điều này. Chúng sanh do vô minh, nghiệp thức che đậy cho nên lầm nhận thân này là thật, cho nên nuôi dưỡng nó, che chở và cung phụng bằng những món ngon, vật lạ để rồi tự tạo lấy nghiệp ( sát sanh, trộm cướp...). Vì thấy thân này là thật nên hễ ai dám xúc phạm, đụng chạm đến thân thì ta liền sân si chửi mắng, đánh đập đối phương. Và cũng vì chấp thân này là thật cho nên cả một đời chúng ta cứ phải loan tính để cho thân này được thụ hưởng thật nhiều dục lạc ( tài, sắc, danh, thực, thùy).. để rồi hại người, lừa dối người và tự tạo hố sâu nghiệp chướng cho bản thân mình. Thật đáng thương xót!.
Kế đến là Tâm vô thường.
Tâm vô thường chính là vọng tâm, vì nó luôn thay đổi, nương nơi ngoại cảnh mà khởi vọng tưởng sanh diệt, đảo điên. Chúng ta thường nghe câu nói “ Tâm viên ý mã” là chỉ cho sự vô thường của tâm, suy nghĩ mông lung, tâm ý điên đảo, hết nghĩ đến chuyện quá khứ, rồi lại vọng tưởng đến chuyện tương lai. Lúc thì nghĩ tốt cho người, khi thì nghi ngờ, nói xấu người đủ chuyện. Gặp việc vừa ý, có lợi cho mình thì vui thích, đắm say. Còn khi gặp việc trái ý, nghịch lòng thì bất mãn, oán hận, sân si.
Trong Kinh Di Giáo, đức Phật có dạy rằng : “Các thầy Tỳ kheo, năm thứ giác quan do tâm chủ động, vì vậy mà các thầy lại phải thận trọng chế ngự tâm mình. Tâm còn đáng sợ hơn cả rắn độc, thú dữ, giặc thù, lửa dữ bùng cháy lan tràn cũng chưa đủ để ví dụ cho tâm. Như một kẻ tay bưng bát mật mà chuyển động, chạy nhảy, chỉ thấy bát mật chứ không thấy hố sâu, như thế không khác gì với voi điên mà không có móc sắt, vượn khỉ mà được cây rừng, thì sẽ hung hăng nhảy vọt, khó mà ngăn cản; các thầy phải cấp tốc tỏa chiết, đừng cho phóng túng. Phóng túng tâm ra thì làm tan nát việc thiện của người. Chế ngự tâm lại một chỗ thì không việc gì không thành. Thế nên, các thầy Tỳ kheo hãy nỗ lực tinh tấn mà chiết phục tâm mình”. (3)
Qua lời Phật dạy, chúng ta hiểu rằng khi tâm chưa được thuần phục sẽ rất nguy hiểm, khiến chúng sanh vô minh, làm các việc xấu ác, mất đi thiện tâm, trầm luân trong sanh tử luân hồi, chịu biết bao thống khổ. Vì vậy, đức Phật dạy cần phải chế ngự tâm lại một chỗ, chớ để tâm ý buông lung, rong ruổi theo ngoại cảnh mà tạo tác ác nghiệp. Khi nhìn thấy sắc đẹp, chúng ta cần phải quán Bất tịnh, để chế phục tâm tham mê sắc dục, từ đó ngăn chặn những ý nghĩ bất chánh, cũng không gây ra những hành động thiếu lễ tiết, chân chánh. Khi nghe những lời mắng chửi, cần phải quán Từ bi, quán chiếu người nói do sự si mê, sân hận mà không thấy, biết như thật cho nên mới nói những lời như thế. Chúng ta cần cảm thông và rộng lòng bao dung cho người, để cả hai cùng hiểu nhau, tha thứ cho nhau và cùng sống chung an lạc. Cần phải nương theo giáo pháp, giới luật của đức Phật để chế ngự tâm viên, ý mã giúp chúng sanh có được ba nghiệp ( thân, khẩu, ý ) thanh tịnh, cõi nhân gian sẽ ngập tràn niềm an vui, hạnh phúc.
Hoàn cảnh vô thường.
Hoàn cảnh vô thường tức là nơi chúng ta đang sinh sống cũng vô thường. Như thế giới Ta bà mà chúng ta đang hiện sinh sống cũng vô thường, vì nó không thoát khỏi định luật thành, trụ, hoại, không. Trái đất đang nóng dần lên, thiên tai, bão lụt xảy ra ở khắp nơi, đe dọa mạng sống của nhân sinh từng giây, từng phút.
Hoàn cảnh vô thường còn được hiểu là sự thay đổi không ngừng của các cảnh vật, sự sống xung quanh ta. Những cánh đồng ruộng lúa giờ đây đã được thay thế bằng những nhà máy, xí nghiệp. Những ngôi nhà tranh vách lá giờ đây đã được cải tiến với những vật liệu xây dựng tối tân, hiện đại. Hoặc đối với sự vinh, nhục, giàu sang không thể nào trường tồn mãi mãi. Có người trước kia giàu sang, phú quý nhưng khi gặp biến cố lại hóa thành tay trắng, nghèo khổ... Sự vô thường, đổi thay luôn chi phối đến đời sống con người, thế nên trong Kinh Pháp Cú, đức Phật có dạy rằng :
“ Ai sống một trăm năm
Không thấy pháp sinh diệt
Tốt hơn sống một ngày
Thấy được pháp sinh diệt”. (4)
Những lời dạy của đức Phật như thức tỉnh chúng sanh thoát khỏi sự si mê, điên đảo. Dẫu cho chúng ta có sống được cả trăm năm nhưng vẫn mê muội, không thấy được bản chất của các pháp là sanh diệt, vô thường để rồi một đời chạy theo ngũ dục, lục trần, tạo tác biết bao nghiệp xấu, ác. Chẳng bằng người dẫu chỉ sống một ngày mà rõ biết các pháp là sanh diệt, do duyên sanh cũng do duyên diệt, chỉ là giả hợp, không có gì là bền chắc. Khi đã thấy, biết các pháp là sanh diệt từ đó sẽ không chấp thủ, không khởi tâm tham đắm vào các pháp, mà sẽ thấy, biết đúng được bản chất của vạn pháp.
Qua đây, chúng ta cần rõ biết : “Vô thường nghĩa là không chắc chắn, thay đổi. Một trong Ba tính chất của tất cả sự vật. Vô thường là đặc tính chung của mọi sự sinh ra có điều kiện, tức là thành, trụ, hoại, diệt. Từ tính vô thường ta có thể suy luận ra hai đặc tính kia là Khổ và Vô ngã. Vô thường là tính chất cơ bản của cuộc sống, không có vô thường thì không có sự tồn tại; vô thường cũng chính là khả năng dẫn đến giải thoát. Có tri kiến vô thường hành giả mới bước vào Thánh đạo -vì vậy tri kiến vô thường được xem là tri kiến của bậc Dự lưu.
Vô thường là gốc của Khổ vì Sinh, Thành, Hoại, Diệt tự nó là Khổ. Tính Vô thường của Ngũ uẩn dẫn đến kết luận Vô ngã, vì không có gì vừa vô thường vừa Khổ lại là một cái Ngã trường tồn được. Ngoài ra, trong Đại thừa, tính vô thường của mọi pháp dẫn đến kết luận về tính Không”. (5)
Vô thường là một định luật tất yếu, chi phối tất cả những sự vật, sự việc đang tồn tại xung quanh nó. Nhưng biết được vô thường giúp chúng sanh rõ biết được sự duyện hợp, tạm bợ của các pháp để không chấp thủ và tạo nghiệp. Biết được vô thường sẽ giúp chúng sanh tinh tấn, nỗ lực tu tập để nhận ra cái chân thường, bất biến. Là một hành giả, chúng ta cần phải cảnh tỉnh, luôn nhắc nhở bản thân trước sự vô thường, đổi thay để luôn trân trọng từng giây phút mà mình đang thực tu, thực sống. “ Tất cả rồi cũng sẽ qua”, phải chăng “ Một đời người là một rừng cây”, nhưng chúng ta hãy luôn là những tàng cây che mát cho những ai đang còn lạc lõng, bơ vơ giữa dòng đời đầy phong ba, bão táp mong cầu tìm về với chốn bình an.
Chú thích và tài liệu tham khảo :
(1) Phật Học Phổ Thông, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, quyển 1, trang 218, Nxb : Tôn giáo, năm 2010.
(2) Kinh Tứ Thập Nhị Chương, trang 168-169, Nxb: Hồng Đức, năm 2008.
(3) Kinh Di Giáo, trang 63, Nxb : Phương Đông, năm 2017.
(4) Kinh Pháp Cú, số 113, Hòa Thượng Thích Minh Châu, trang 56, Nxb : Hồng Đức, năm 2017.
(5) Kinh Tứ Thập Nhị Chương, trang 102, Nxb : Hồng Đức, năm 2018.