Đạo Phật Ngày Nay

Dòng Đời Xuôi Ngược Biển Ái Vô Cùng

Tình cảm cũng giống như một thứ linh dược quan trọng, nó có thể cảm hóa và thay đổi được mọi thứ, nó là sợi dây gắn kết giữa con người với con người, nó đã làm cho con người thêm gần gũi với nhau nhờ tình yêu thương chân thật và có thể thù ghét nhau bởi quá tham lam và ích kỷ.

Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái tức là sự thương yêu trìu mến nhau mà người đời thường hay gọi đó là tình cảm.

    Nếu nói về muôn loài trên thế gian, con người là sinh vật cao cấp sống bằng “tình cảm” vì có hiểu biết, suy nghĩ, nói năng nhận thức và làm được nhiều việc đóng góp lợi ích thiết thực trong bầu vũ trụ bao la này.

    Tình cảm cũng giống như một thứ linh dược quan trọng, nó có thể cảm hóa và thay đổi được mọi thứ, nó là sợi dây gắn kết giữa con người với con người, nó đã làm cho con người thêm gần gũi với nhau nhờ tình yêu thương chân thật và có thể thù ghét nhau bởi quá tham lam và ích kỷ.

     Cuộc đời này sẽ không còn giá trị thiết thực, khi con người sống không có tình cảm với nhau. Ta chỉ thương yêu quý mến lo lắng cho nhau thật sự khi nó là của riêng ta. Tình cảm con người được biểu hiện qua tâm lý cảm xúc buồn vui, thương ghét, giận hờn, lo lắng, sợ hãi, ganh tị, tật đố và tham muốn. Hay nói ngắn gọn là bị phiền não tham, sân, si, chi phối sai sử con người không làm chủ được bản thân, nên hành động trong mê muội, làm những điều xấu ác có hại cho người và vật.    

     Trước hết, hòa theo dòng chảy của thời gian con người với bộn bề công việc, nhiều lúc chúng ta cảm thấy cuộc sống của ta sao quá nhiều vô vị, chán nản, mệt mỏi, cô đơn và vô cùng tuyệt vọng. Thực tế cuộc sống văn minh tiến bộ ngày hôm nay cho thấy con người phải lệ thuộc vào vật chất quá nhiều, làm cho một số người trẻ mất đi định hướng cuộc đời. Con số những người trẻ sống không có tương lai, vì bị ma túy, tình dục, rượu bia làm vẫn đục, sống không định hướng nên vướng vào tệ nạn xã hội làm khổ gia đình người thân.

    Khi chúng ta ngồi lại để phân tích tìm cảm luyến ái yêu ghét của con người, ta sẽ thấy rõ ràng đều xuất phát từ sự tham lam ích kỷ do ngu si chấp ngã mà ra. Cái gì làm cho ta thoả mãn được lòng ham muốn thì sự yêu thích sẽ phát sinh để ta bám víu dính mắc vào đó. Ngược lại, cái gì ngăn cản lòng tham muốn của chúng ta thì sẽ phát sinh ra sự bực tức, nóng giận và dẫn đến thù hằn ghét bỏ.

     Chúng ta sống trong cõi đời là để được chia sẻ yêu thương, để mở rộng tấm lòng nhân ái với mọi người. Chỉ có tình yêu thương chân chánh mới giúp chúng ta sống gần gũi và biết chia sẻ trong sự cảm thông, trên tinh thần thương yêu đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết. Thế gian này không một ai sống mà không cần đến tình yêu thương, bởi nó là sợi dây vô hình mầu nhiệm kết nối trái tim lại làm cho con người được an vui và hạnh phúc.  

     Tình yêu thương là phương thuốc tinh thần mầu nhiệm xoa dịu các nỗi đau bất hạnh, để chúng ta vững vàng vượt qua những phiền muộn khổ đau của cuộc đời. Để khám phá ra ý nghĩa cho cuộc đời của mình, và để sống cho những điều mà chúng ta cho là ý nghĩa nhất phù hợp với lòng người.

     Để được sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết chúng ta phải biết chia sẻ, cảm thông, luôn thương yêu san sẻ, nâng đỡ cho nhau mà không phân biệt thân sơ, đó mới là tình cảm của con người có tấm lòng bao la rộng lớn. Từ tình cảm đó chúng ta sẽ được nhiều người quý kính, tôn trọng và mến thương bằng tình người trong cuộc sống.

     Có một loại tình cảm, mà nhân loại lúc nào cũng ca ngợi từ ngàn xưa cho đến nay đó là tình yêu nam nữ, nhờ đó mà thế gian này luôn phát triển và tồn tại. Tình yêu lứa đôi luôn đóng vai trò thiết yếu quan trọng trong cuộc sống và thế giới loài người sở dĩ tồn tại và phát triển nhờ loại tình yêu mãnh liệt này. Vì muốn bảo vệ tình yêu cho riêng mình trong sự ích kỷ, nên mới phát sinh ra các thứ tình cảm như yêu ghét, buồn vui, thương giận và lo lắng. Tình ở đây nói chung gọi là tình người trong cuộc sống như tình cha mẹ, tình chồng vợ, tình anh em, tình bè bạn, tình làng nghĩa xóm, tình yêu, tình nhân loại v..v…Vì cái tình đó, cho nên con người sinh ra luyến ái, mến thương, yêu thích và luôn gắn bó với nhau nhiều hơn.

     Chính vì nhìn thấy được bản chất thật của tình cảm con người rất phức tạp và phiền toái, nên các bậc Thánh nhân thường hay khuyên nhủ mọi người hãy nên tu tập tâm từ bi để mở rộng tấm lòng rộng lớn bằng tình yêu thương chân thật không vị kỷ.

     Tình cảm con người thật sự bao la không ngần mé, phải được xuất phát từ tình yêu thương chân thật bằng trái tim hiểu biết nên dễ cảm thông và tha thứ cho nhau. Trong tình yêu ngoài sự quan hệ tình dục ra, chúng ta còn có trách nhiệm bổn phận đối với việc nuôi dạy con cái. Cho nên trong tình yêu cần có sự hy sinh, bao dung và độ lượng, nâng đỡ và sẻ chia, rồi còn phải tha thứ và cảm thông cho nhau.

     Thực tế trong cuộc sống chúng ta chỉ thương yêu người đem lợi ích về cho mình và sẽ vắng bóng tình thương khi quyền lợi không còn nữa. Tình yêu nam nữ luôn mang tính chất ích kỷ của sự chấp ngã, vì sự đam mê say đắm thân này.

    Ai thương yêu và giúp đỡ ta, ta sẽ quý mến họ. Ai làm hại ta, ta sẽ thù ghét họ. Đó là quy luật tất yếu của thế gian mà ít người vượt qua nỗi. Một khi giữa hai người không đáp ứng được nhu cầu cho nhau, từ đó vợ chồng bị sức mẻ rạn nức dẫn đến gây gổ cãi vả và việc bạo hành sẽ xảy ra, cuối cùng dẫn đến đổ vở hạnh phúc vì trong họ không có tình yêu thương chân thật.         

     Từ ngàn xưa cho đến nay tình ái vẫn là thứ dễ làm cho con người mù quáng và si mê nhất, nên dễ dàng gây ra nhiều tội lỗi, do đó, rất nhiều câu chuyện thương tâm xảy ra làm đau lòng nhân thế. Cảnh nhồi da xáo thịt làm mất đi nhân cách của một con người, con giết cha, mẹ giết con, vợ giết chồng rồi kẻ tình địch giết hại lẫn nhau vì ghen tuông vô cớ. Con người càng ngày làm mất đi giá trị nhân cách do không hiểu biết và nhận thức thiếu sáng suốt, nên dễ dàng gây tạo nhiều tội lỗi và làm khổ đau cho nhau.

     Ai cũng có thể biết tình yêu đưa đến hôn nhân nhằm phát triển giống nòi nhân loại và bảo vệ truyền thống gia tộc, nhưng lại là đầu mối của nhiều hệ lụy khổ đau, bởi sự yêu thương trong vị kỷ cho nên nói tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ, đời mất vui khi đã vẹn câu thề. Khi mới yêu, ai cũng cố gắng che dấu khiếm khuyết của mình để được người tình yêu mến, khi đã lấy nhau rồi thói quen xấu mới lòi ra, nhà Phật gọi là tập khí.

    Tập khí tức những thói quen từ những suy nghĩ rồi hành động, được huân tập lập đi lập lại nhiều lần. Bởi vì huân tập lâu ngày cho nên nó có sức mạnh chi phối, sai sử chúng ta dù biết đó là tác hại, như người đam mê sắc dục ham của lạ, có thể làm tan vỡ hạnh phúc gia đình mình hoặc người khác, nhất là những người giàu sang và có địa vị trong xã hội.         

     Thật ra tình dục không phải là chuyện xấu, nó luôn gắn liền với con người từ vô thủy kiếp đến nay. Đã là chúng sinh thì phải ăn, phải ngủ, phải làm việc và thụ hưởng cảm giác khoái lạc. Đã đưa vào thì phải thải ra và chúng ta có trách nhiệm duy trì giống nòi nhân loại nhằm gìn giữ và phát triển truyền thống làm người.

     Con người là một sinh vật cao cấp, hơn hẳn các loài khác về mọi phương diện, nếu biết suy nghĩ, nói năng và hành động hướng thiện bằng trái tim yêu thương và hiểu biết thì sẽ giúp ích cho nhân loại sống an vui hạnh phúc. Ngược lại vì tình cảm riêng tư muốn chiếm hữu trong sự ganh ghét ích kỷ tham lam sẽ gây khổ đau cho nhau. Chính vì thế, mà loài người luôn đứng ở vị trí cao quý vì biết cách làm chủ bản thân, nếu vì lòng tham cho riêng mình thì cùng hung cực ác, nếu vì lợi ích chung cho nhân loại thì lợi ích cho con người không loài nào bằng.    

      Thế gian là một trường đời hỗn hợp, ai biết tu nhân tích đức thì sống an vui hạnh phúc, ai không biết thì cam chịu khổ đau vì si mê sa đoạ. Hạnh phúc hay khổ đau đều do mình tạo lấy, không ai có quyền ban phước giáng họa, mà chính mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc, được gây ra từ thân, miệng, ý, của mỗi người. Mình làm phước sẽ hưởng được đều thiện lành tốt đẹp, mình làm ác phải chịu khổ đau, đó là sự thật.

     Từ vô thủy kiếp chúng ta đã sống trong lầm lạc vô minh, cho nên huân tập rất nhiều thói quen xấu như tham lam, nóng giận và si mê. Nhiều người biết được sự tác hại của nó, nhưng không đủ khả năng để vượt qua, đành cam chịu chết chìm trong tội lỗi. Thật ra tình yêu thương giữa hai người phát sinh từ lòng tham ái mà ra, vì sự khoái lạc của chính mình. Và chúng ta chỉ yêu thương người nào đem lại hạnh phúc cho mình và sẽ oán giận thù hằn những ai đem đau khổ đến cho ta.

       Phật dạy người cư sĩ tại gia có quyền lấy vợ lấy chồng, nhưng phải thủy chung một chồng một vợ, không được dan díu và quan hệ bất chính với vợ chồng người khác. Ngoại tình là nguyên nhân dẫn đến ghen tuông vô cớ và phá hoại hạnh phúc gia đình người khác. Trong tình yêu ghen tuông luôn gắn liền với ích kỷ và nó là trạng thái tâm lý không thể tách rời nhau, có yêu thương là có ghen ghét. Bao nhiêu vụ án xảy ra làm đau lòng nhân thế với những cái chết thật đáng tiếc và vô lý làm sao, chỉ vì ghen tuông trong mù quáng. Bởi vì chúng ta yêu thương trong sự lợi dụng lẫn nhau, mà không có tình yêu thương chân thật, nên dẫn đến hẹp hòi, ích kỷ làm tan vỡ hạnh phúc gia đình.

     Trong tình ái do bảo vệ cái ta ích kỷ hoặc ghen tuông vô cớ, dễ làm con người mù quáng gây nhiều đau khổ cho nhau. Tình yêu bản chất vốn không xấu xa tội lỗi, ai cũng muốn mình được an vui hạnh phúc trong đời sống lứa đôi, nhưng vì chúng ta không có sự hy sinh và chia sẻ cho nhau, ta không biết bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ, vì sự tham lam ích kỷ của ta. Một xã hội nếu không có nền tảng giáo dục về tâm linh, dễ khiến con người cuồng si trong tham muốn nên con giết cha, vợ hại chồng, mẹ giết con, anh giết em và vô số sự giết hại khác từ chỗ không làm chủ được bản thân mà ra.      

     Muốn biết được sự thật của tình yêu như thế nào, chúng ta hãy cùng nghe một đôi tình nhân có một không hai trong thiên hạ luận bàn như sau:

      Một ông vua trong lúc cao hứng mới hỏi hoàng hậu của mình, chẳng hay ái khanh yêu ai nhất trên đời này?

    -Tiện thiếp yêu bệ hạ nhất trên đời chứ còn ai.

    -Vua hỏi tiếp: Tại sao ái khanh yêu trẫm?

    - Vì bệ hạ đã ban cho thần thiếp hạnh phúc.

    - Vậy bệ hạ có yêu thần thiếp hay không?

    - Trẫm yêu ái khanh nhất trên đời.

    - Bệ hạ nói thiệt hôn đó.

    - Trẫm nói thiệt mà thần thiếp hổng tin sao?

            - Bệ hạ nói cho vui lòng tiện thiếp đó thôi, chớ làm sao dám bảo đảm được. Bây giờ bệ hạ cho tiện thiếp nói khác đi được không?

     - Được, ái khanh cứ nói đi.

     - Muôn tâu thánh thượng, thiếp chỉ thương yêu thần thiếp mà thôi.

     - Nhà vua bảo : Ái khanh nói nghe sao lạ lùng quá.

      Một sự thật không thể ngờ và quá phủ phàng mà ít ai nghĩ tới, chỉ vì bảo vệ tình yêu cho riêng mình, mà thế gian này xảy ra rất nhiều vụ án giết người, vì tham lam ích kỷ, vì ghen tuông vô cớ, mà tình địch giết hại nhau làm đau lòng nhân thế.

     Ngày xưa một ông vua có cả hàng khối cung phi mỹ nữ để hưởng thụ cảm giác khoái lạc cho riêng mình. Làm vua mà không có nhân từ đạo đức thì mau chết sớm và làm đau khổ rất nhiều người. Vì muốn bảo vệ các cung phi mỹ nữ cho riêng mình, nên ông vua phải tàn nhẫn thiến hết các quan thái giám vì sợ họ phỏng tay trên. Trên đời này không gì yêu thương và thù ghét bằng tình ái, chính cái tình này nó làm điên đảo cả thế giới loài người. Nếu ai dan díu với thê thiếp của vua thì bị mất mạng dễ dàng và bị chém đầu trong tích tắc. Vì chạm đến bản ngã và sĩ diện của vua, vua là trên hết, vua có quyền ăn trên ngồi trước thiên hạ, vua là thiên tử tức con trời, thay trời trị vì thiên hạ cho nên vua muốn làm gì thì làm không ai có quyền ngăn cấm vì đó là của vua, ai đụng đến thì bị mất đầu như chơi nếu không thì cũng bị lưu đày biệt xứ.

     Thật ra trong tình yêu nam nữ vì muốn cho thân mình được hạnh phúc, cho nên chúng ta phải biết cho đi, để được nhận lại bằng sự yêu thương trìu mến. Đó là sự trao đổi có nghệ thuật giữa hai người, vì ta thương ta, nên ta phải cho người khác, để người khác cho ta lại. Nếu một trong hai người vì không còn đáp ứng được nhu cầu cho nhau thì tình nghĩa đôi mình có thế thôi, đường em, em đi, em đi, đường anh, anh đi, anh đi. Đó là một sự thật.    

      Do đó, tình yêu lứa đôi trong hạnh phúc gia đình luôn mang tính chất ích kỷ hẹp hòi, vì muốn hưởng thụ khoái lạc cho riêng mình. Chính sự đam mê hưởng thụ đó, thôi thúc con người tìm đến nhau, nhưng ít ai được hạnh phúc trọn vẹn. Thực tế thường cho chúng ta thấy, nhiều cặp vợ chồng gây gổ đánh đập nhau hoài vì ghen tuông, vì ngoại tình, cuối cùng ly dị để chịu cảnh tan nhà nát cửa bỏ con cái bơ vơ. Trong tình yêu, nếu thiếu lòng bao dung và độ lượng, không có sự hy sinh và chia sẻ, không có sự cảm thông và tha thứ thì con người dễ dàng bỏ nhau.

     Thói quen của người nam nặng về ham muốn, nên thích chiếm đoạt sở hữu nhiều người và theo thói quen mình là gia trưởng hoặc quan niệm chồng chúa vợ tôi. Cho nên xã hội thời đó buộc người phụ nữ, gái chính chuyên phải một chồng và chồng chết phải thờ con không được quyền tái giá, đàn ông thì có quyền năm thê bẩy thiếp.

     Đó là quan niệm của thời phong kiến xa xưa, bắt người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi đắng cay, nên bà Hồ Xuân Hương có câu:   

     Chém cha cái kiếp chồng chung, tháng có đôi lần, có tháng cũng không.   

     Người phụ nữ trong thời đại này không được ra khỏi cửa, không được tham gia công việc bên ngoài, sinh con và lo việc trong nhà. Nhưng phải sinh con trai để nối dõi tông đường, nếu sinh con gái cũng bằng thừa vì gái lớn lên phải theo chồng, cho nên trong cung vua từ hoàng hậu cho đến mấy bà phi ai có con trai thì được ưu ái. Do đó mà tình trạng cạnh tranh ganh ghét giữa các bà phi với nhau, rồi tìm cách hãm hại nhau để giành quyền lợi cho riêng mình.

     Người phụ nữ thì thiên về tình cảm, có thiên chức làm mẹ chờ đợi sự tìm kiếm của người đàn ông, nên đa số chỉ yêu bằng tai. Ai nhỏ nhẹ, tâng bốc khen ngợi ngọt ngào, dễ thu phục trái tim đàn bà. Vì thế dân gian thường nói, đẹp trai không bằng chai mặt là vậy đó. Người nam dù xấu trai đến cở nào, nhưng cứ theo đuổi rù rì riết cũng dễ làm xiêu lòng người nữ.

     Chính vì vậy mà tục ngữ có câu : Củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ xài là vậy đó.

     Trở lại câu chuyện vua và hoàng hậu luận bàn về tình yêu nam nữ. Thật ra, thiếp chỉ yêu thương thần thiếp, vì thương yêu mình nên muốn bệ hạ ban cho hạnh phúc đó thôi. Bệ hạ biết hôn, muốn cho thân này có được hạnh phúc nên thiếp phải yêu thương bệ hạ. Có vậy bệ hạ mới thương yêu lại thần thiếp và tạo ra tình yêu thương luyến ái nhau để thần thiếp được hạnh phúc. Nhà vua nghe qua mới biết được sự thật của tình yêu là gì?

      Tình yêu vốn không xấu xa tội lỗi, nếu chúng ta biết chia sẻ hài hòa phù hợp với tâm tư nguyện vọng cho nhau, sẽ là nền tảng đạo đức đóng góp lợi ích thiết thực trong công cuộc phát triển duy trì giống nòi nhân lọai. Ngược lại, vì muốn bảo vệ tình yêu trong sự ích kỷ cá nhân không có tình thương yêu chân thật, nên con người không rộng lượng, bao dung tha thứ và thông cảm cho nhau. Dẫn đến nhiều gia đình bị tan nhà nát cửa, vì sự ghen tuông vô cớ mà thành ra oán hận, thù hằn.

      Có một nỗi đau ghê gớm, hành hạ con người tan nát cõi lòng, trái tim từ từ rỉ máu như những mũi kim từ từ chích vào da thịt, đó là tình yêu đơn phương, tức yêu một mình, ta yêu người mà người chẳng yêu ta. Tình yêu đơn phương làm cho con người chết dần mòn trong đau khổ và sẽ khô khan héo sầu thê thảm, vì không được đáp lại theo tiếng gọi của con tim. Con người như điên cuồng si dại, giống như người mất hồn. Ngày xưa, Hàn Mạc Tử đã thốt lên khi không được đáp lại tình yêu thương đôi lứa.

             Người đi một nửa hồn tôi mất

             Một nửa hồn kia bổng dại khờ.

      Trong tình yêu nam nữ không có gì đau khổ bằng khi thầm thương trộm nhớ yêu thích một người, mà không được người kia đáp lại, đến nỗi phải bị bệnh tương tư ăn không ngon, ngủ không được. Và khổ đau nhất là đời sống các nàng cung phi mỹ nữ thời vua chúa. Một ông vua có cả hàng trăm người như thế đang khao khát, mong muốn chờ đợi vua ban cho một chút tình yêu. Nếu ai diễm phúc lọt vào mắt xanh của vua thì lòng càng kiêu hãnh, từ đó sanh ra tham lam, ích kỷ muốn hưởng riêng cho mình. Đó chính là nguyên nhân gây thù chuốc oán và làm khổ đau cho nhau.

      Một hoàng hậu vì ghen ghét đố kỵ một ái phi được nhà vua yêu thích nên cố tình tìm cách hảm hại. Bà ta thường khen ngợi sắc đẹp nghiêng thành đổ nước của ái phi, với thân hình gợi cảm đầy quyến rũ. Một hôm hoàng hậu đến thăm nàng ái phi và nói rằng : Chị nói em nghe nè, cái mũi em quá đẹp nên lúc nào cũng quyến rũ nhiều người làm các quan trong triều mỗi khi nhìn thấy xao xuyến trong lòng, vì thế mỗi khi hầu vua em nên lấy khăn che mũi lại.

      Ái phi nghe nói có lý nên làm theo lời hoàng hậu, không ngờ bị trúng kế độc mà không biết. Vua lấy làm lạ nên mới hỏi hoàng hậu, ái phi của trẫm sao lúc nào cũng lấy khăn che mũi lại vậy? Sao nhiều lần gạn hỏi, hoàng hậu mới trả lời: Bệ hạ không biết đó sao ái phi chê bệ hạ hôi, nên mới lấy khăn che mũi lại đó! Đụng đến chỗ ngứa của nhà vua, cái mũi của ái phi được đem đi triển lãm liền lập tức và sau đó bị lưu đày biệt xứ vì cái tội dám khinh dễ nhà vua.

     Tâm ganh ghét và tật đố của con người thật đáng sợ, họ vì quyền lợi riêng của mình mà đành lòng sát hại kẻ tình địch khi có điều kiện trong tay. Quan niệm chồng chúa vợ tôi từ cái thấy sai lầm của các ông vua thời phong kiến dựa vào học thuyết có một đấng thần linh thượng đế ban phước giáng hoạ. Vua đại diện cho tầng lớp đó, nên thời phong kiến quân chủ vua là trên hết, vua là thiên tử thay trời trị vì thiên hạ nên vua muốn phong quan tiến chức cho ai thì phong, muốn giết ai thì giết. Ai được lòng vua thì hưởng vinh hoa phú quý cả gia tộc, bằng ngược lại sẽ chịu họa đau khổ thê thảm không thể lường.

      Vậy phong kiến là gì ? Phong kiến là phong chức cấp đất và phong kiến còn mang ý nghĩa sâu xa là một tổ chức được sắp đặt theo loài ong, loài kiến. Trong tổ của loài ong có tôn ti trật tự đàng hoàng, theo hệ thống cấp nào việc đó. Ong thợ chỉ một việc có nhiệm vụ xây tổ, ong nước chuyên đi lấy nước, ong mật chuyên đi hút mật hoa, ong thầy thuốc chuyên lo pha chế mật hợp với từng loài, ong bảo vệ có trách nhiệm giám sát tuần tiểu bảo vệ cẩn thận, ong đực lo truyền giống, ong cái lo đẻ trứng. Chỉ một con ong cái hay còn gọi là ong chúa, nhưng có cả hàng trăm con ong đực nên ong cái được tôn vinh là ong chúa. Ong chúa được ăn một loại thức ăn đặc biệt nhất, gọi là mật ong chúa. Khi ong chúa đến chỗ mật để ăn thì tất cả loài ong đều phải quỳ mọp hết, tỏ vẻ cung kính, thán phục và sợ hãi.

     Điểm đặc biệt là một con ong chúa có khả năng sinh ra nhiều trăm ngàn con ong con. Trong tổ thiếu ong gì để phục dịch và bảo vệ giang sơn của chúng, ong thầy thuốc phải chế thức ăn để ong chúa ăn và đẻ ra thứ ong đó. Như tổ thiếu ong hút mật thì ong chúa đẻ nhiều ong hút mật.

      Khi đẻ ong chúa con và lâu lắm mới đẻ ong chúa con một lần, mỗi lần chỉ được ba trứng. Nhưng thật ác độc và dã man thay, ong chúa mẹ biết được giờ ong chúa con nở, nên ong chúa mẹ đã đến nằm chờ sẵn. Trứng thứ nhất vừa nở ra, ong chúa mẹ liền cắn chết ong chúa con. Kế đến là ong chúa con thứ hai được nở ra trong bình yên vô sự, vì ong chúa mẹ bảo vệ và chăm sóc chu đáo.

      Đây là điều kỳ lạ của loài ong, rồi đến lượt chị ong chúa thứ hai khôn lớn đến nằm chờ sẵn, đợi cô em ong chúa thứ ba vừa chào đời liền cắn chết tại chỗ. Ác độc và dã man thay, dòng họ nhà ong là như thế!

     Tuy nhiên, con người thì thông minh và khôn ngoan hơn nên dựa theo thể chế của loài ong mà sắp đặt luật pháp có một ông trời ban phước giáng hoạ theo cách thức cố định như các loài ong. Từ đó hình thành tập cấp, giai cấp ăn trên ngồi trước và giai cấp bị bóc lột được hình thành ở Ấn Độ cho đến ngày hôm nay vẫn còn.     

      Ai cũng bảo vệ bản ngã của mình, vì thương mình nên phải nhờ người khác trao tặng để mình được hạnh phúc. Trên đời này không có gì sâu đậm mặn nồng tha thiết yêu thương hơn tình ái vì cái tình chung chăn xẻ gối. Và một sự thật quá phũ phàng chua chát, tình yêu là gì? Là một sự lợi dụng lẫn nhau về thể xác lẫn tinh thần, nhằm thỏa mãn khoái lạc của chính mình mà thôi. Khi được thoái mái thì sanh ra yêu thích quyến luyến muốn giữ mãi không rời, ngược lại thì sinh ra thù hằn, ghét bỏ tìm cách hảm hại nhau.

      Để được sinh tồn và hạnh phúc trên thế gian này, tùy theo nhận thức của mọi người, mà có tình cảm yêu thương gắn bó với nhau hay kết nên ân oán, hận thù. Chính vì thế, mà chúng ta cứ sống loanh quanh lẩn quẩn trong cái vòng ấy, nếu đi theo chiều hướng tốt đẹp sẽ dẫn con người đi trên con đường hướng thiện và ngược lại sẽ đưa con người vào chỗ tối tăm.

      Một đôi bạn trẻ xứng đôi vừa lứa, cùng thề non hẹn biển khi công ăn việc làm ổn định và sẽ thành vợ thành chồng sống mãi bên nhau. Cùng học chung lớp chín đến lớp mười hai, Hùng và Hồng quen nhau từ đó. Do không kiềm chế được bản thân, Hồng đã trao thân gởi phận cho Hùng và dẫn đến có thai. Đôi trẻ vì muốn tiến thân để tiếp tục việc học hành, nên đành hủy hoại bào thai trong ngậm ngùi đau xót. Hùng vào miền Nam để tiếp tục học đại học kinh tế, còn Hồng ra Đà Nẵng để học cao đẳng, ai cũng ráng cố gắng để tiếp tục duy trì việc học của mình.

     Nhưng Hùng đã bị sai lầm quá lớn vì kêu người tình phá thai, đây là một điều tối kỵ nhất đối với cuộc đời của phụ nữ vì chối bỏ trách nhiệm làm cha của mình. Tại sao Hùng không biết gìn giữ và Hồng vì một phút mềm lòng mà trao cái quý nhất đời mình trong khi còn đang ăn học. Người con gái ấy, bất đắc dĩ đành hủy hoại cái mầm sống do hai người tạo ra trong thương tiếc nghẹn ngào.

     Phụ nữ lúc nào cũng yêu bằng tai, bao nhiêu lời ngon tiếng ngọt kèm theo những lời hứa hẹn trong tương lai thật tốt đẹp, nên Hồng đã trót lỡ trao thân quá sớm. Hồng, sau khi học ở Đà Nẵng đã phải lòng chàng trai khác, nàng đã thay lòng đổi dạ, đổi áo thay tình và bắt đầu ngoãnh mặt làm ngơ với người yêu cũ.

     Trong một lần về thăm nhà, tình cờ Hùng thấy Hồng là người yêu cũ của mình dẫn một chàng trai về giới thiệu với gia đình cô ta. Nó uất ức nghẹn ngào lắm mà nói không nên lời, nhiều lần điện thoại cho Hồng để được giải bày tâm sự chuyện hai đứa đã hứa hẹn với nhau, nhưng Hồng một mực từ chối không cho liên lạc.

     Một lần khác, tại TPHCM nó đã vô tình gặp Hồng cùng chàng trai ấy đón xe về Đà Nẵng, nó gặn hỏi mãi Hồng mới thú thật, tôi và anh bây giờ hãy coi nhau như bạn bè không còn tình nghĩa gì nữa. Và Hồng mạnh dạn giới thiệu với nó, đây là chồng sắp cưới của tui đã tốt nghiệp Đại học kinh tế và đang làm việc tại TPHCM.

     Bị người yêu phụ bạc và công khai chuẩn bị lấy chồng, nó tiếc nuối về dĩ dãng quá khứ phải chi mình để lại cái bào thai trong bụng nàng thì bây giờ nàng đã thuộc về ta rồi. Càng nghĩ nó càng bực tức và cau có, cuối cùng nó không còn tinh thần để học nữa, và bắt đầu lao vào rượu chè be bét để giải sầu. Thế rồi nó bỏ học về nhà suốt ngày làm ông thần lưu linh, sáng xỉn chiều say tối lai rai, mới đầu gia đình còn khuyên can, sau rồi bỏ mặc cho nó muốn làm gì thì làm.

     Trong cơn tuyệt vọng bị người yêu hất hủi, phụ bạc nó nghĩ đó là mối tình đầu đẹp nhất trong đời của nó, tại sao người khác đã cướp mất đi, nên nó không bao giờ quên được. Đau khổ, quằn quại, nhớ thương, tiếc nuối trong men say tình ái. Nhớ lại trước kia, hai đứa cùng nhau thề non hẹn biển, sống đời với nhau, không gì có thể thay đổi được mà giờ đây sự thật quá phũ phàng, nàng đã có người yêu khác và chuẩn bị lấy chồng.

      Điên cuồng, hoảng loạn, chơi vơi chới với theo men say tình ái, nó khởi lên ý niệm giết Hồng để bảo vệ tình yêu trong trắng của nó, rồi sau đó nó sẽ tự sát, để cùng chết theo người yêu. Nông nổi, dại khờ, điên cuồng rồi dẫn đến mù quáng, nó nghĩ sao liền làm vậy. Sáng hôm đó, nó đón xe đến phòng trọ của Hồng đang ở, sau khi giết xong nó bèn tự sát, nhưng sự việc không thành nó bị phát giác và được đưa đi bệnh viện cấp cứu. Nó phải sống, để trả một giá rất đắt về việc làm tội lỗi của nó với bản án tử hình trong nay mai.

     Thật tội nghiệp và đáng tiếc cho chàng sinh viên đó, cha mẹ cho ăn học đến ngần ấy, mà không biết sáng suốt lựa chọn hướng đi tốt đẹp, cuối cùng vì tiếng sét ái tình mà trở thành kẻ giết người. Tình ái là con dao hai lưỡi khi yêu nhau thì cái gì cũng đẹp, đến khi muốn mà không được thì con người ta đau khổ vô cùng, nhất là bị mất mát trong tình yêu.

      Tuổi trẻ ngày hôm nay do đời sống tiện nghi vật chất phát triển quá nhanh, ảnh hưởng sách báo phim đồi truỵ cho nên không kiềm chế được bản thân, dẫn đến trong giới sinh viên học sinh rộ lên phong trào sống thử, khi còn đang đi học. Tình trạng phá thai xảy ra như ăn cơm bữa, phẩm chất nhân cách đạo đức đã bị mai một, do mạng lưới thông tin toàn cầu quá thông dụng, chuyện sống thử, chuyện đổi vợ, các dịch dụ phim sex đã làm tác động không ít đến đời sống các em sinh viên học sinh. Nhiều vụ án giết người dã man, nhiều chuyện hiếp dâm man rợ, rồi tình trạng cướp của giết người do nghiện ngập ma túy, bệnh sida lan tràn gây ảnh hưởng và lây lan cho nhiều người.

      Chàng sinh viên đó, được đầy đủ phước báo và nhân duyên tốt đẹp nên mới được cha mẹ nuôi cho ăn học đàng hoàng, tốn kém không biết là bao. Thay gì, chàng trai ấy cố gắng chăm chỉ học hành cho đến nơi tới chốn, khi thành tài có công danh sự nghiệp rồi mặc tình đuổi bướm bắt hoa kết duyên thành chồng vợ thì hạnh phúc vô cùng.

      Đằng này lại yêu cuồng sống vội, để rồi phải chuốc họa vào thân với cơn ghen cuồng dại. Thường mối tình đầu hay để lại dấu ấn khó phai, nó mê muội cuồng si lao vào rượu chè be bét dẫn đến khủng hoảng tinh thần mà không làm chủ được bản thân để rồi trở thành kẻ giết người man rợ. Cha mẹ nó phải tảo tần siêng năng, thức khuya dậy sớm nhọc nhằn, để có tiền cho con mình ăn học đàng hoàng, hầu có chút ít công danh sự nghiệp để nuôi thân sau này.

      Hồng, thời gian đầu khi mới xa nhau để tiếp tục việc học hành, cô ta vẫn một lòng chung thủy với nó. Vẫn liên lạc qua lại bằng điện thoại để động viên nhau trên bước đường học tập. Nhưng rồi thời gian cũng phôi phai, xa mặt cách lòng, Hồng được nhiều chàng trai khác ve vãn, tán tỉnh, gần gũi. Nếu so sánh với Hùng thì người tình sau hơn hẳn về mọi mặt, đẹp trai, học thức uyên bác gia đình giàu có lại hào hoa phong nhã, nên Hồng phải lòng người sau hơn mà cho nó một đá thật đích đáng.

     Nếu Hùng là người có ý chí cao, có lòng độ lượng bao dung và có sự hiểu biết chân chính, thay vì hận người yêu thì anh ta phải cố gắng học giỏi hơn để sau này được thành đạt. Có tiền, có tài, có địa vị thì chuyện tình yêu lứa đôi để đi đến hôn nhân đâu có chuyện gì khó. Chim trời cá nước ai bắt được nấy hưởng có gì đâu mà phải bận lòng, cha mẹ mất đi không thể tìm lại cha mẹ, còn mất người tình thì tìm người khác.

     Chuyện tình ái, chuyện yêu thương chẳng qua chỉ là sự lợi dụng lẫn nhau qua xác thịt mà thôi, ít ai dám quả quyết rằng mình có tình yêu thương chân thật, ngoại trừ duyên nợ quá khứ. Nhưng Hùng vì suy nghĩ quá nông cạn nên anh ta, phải trả bằng cái giá rất đắt cho cuộc đời của nó với bản án tử hình. Cũng may cho Hùng trong khi chờ đợi thi hành án, anh ta có đủ thời gian để ngồi lại suy gẫm những hành động ngu ngơ, mù mờ và sự ngông cuồng của mình vì yêu không được mà sinh ra thù ghét.

     Tình yêu như thế không phải là tình yêu thương chân thật, chẳng qua chỉ là một sự tham lam, ích kỷ của riêng mình với quan niệm thà ăn không được thì phá cho hôi. Có duyên mà không có  nợ thì đường ai nấy đi, luyến tiếc mà chi chút ấy để rồi phải chịu ngồi tù và chuẩn bị chờ chết với tiếng đời bêu rếu, thật là hổ thẹn làm sao cho chàng sinh viên thời hiện đại.  

     Nguyên nhân chính đưa con người vào vòng tội lỗi làm khổ đau cho nhau, là do không tin sâu nhân quả vì biết mà cố phạm và bị nghiệp thức che đậy. Ý thức được khổ đau do sự giết hại gây ra, mỗi người chúng ta giữ giới không giết người và hạn chế tối đa các loài vật từ nhỏ đến lớn. Làm bậc cha mẹ chúng ta phải giáo dục cho con em mình từ lúc ấu thơ, khi thấy chúng tự tay giết hại những con vật nhỏ như bướm, kiến, ong, do vô tình hay cố ý.

      Cha mẹ phải tìm cách ngăn cản la rầy, nói rõ cho chúng biết sự tác hại của nó, nếu không lớn lên các em có thể mạnh tay hơn giết những con vật lớn và cuối cùng có thể giết người khi không làm chủ bản thân. Nếu chúng ta ai cũng y theo lời Phật dạy, giữ gìn giới không giết hại thì thế giới này không có chiến tranh, binh đao, sóng thần, động đất, không sợ khủng bố trả thù, không bị bệnh tật, chết yểu và mọi người sẽ sống an vui, hạnh phúc.

     Nhưng suy đi nghĩ lại thì càng thương anh ta hơn, mối tình đầu  nó đẹp làm sao đâu nhớ lại hình ảnh thân yêu nhất trong lúc chung chăn xẻ gối giờ đã mất tất cả, thôi là hết em đi đường em, tình đôi mình chỉ bấy nhiêu thôi, vì sao trời đành bắt duyên em để cho tim mình lỡ làng. Nghe câu hát này càng thêm não nuột trong lòng.

      Anh ta giờ đây đã biết ăn năn hối lỗi, nên đã phát nguyện ăn chay trường để cầu nguyện cho Hồng mau được siêu sinh thoát hoá, không oán hận mà mở dây oan trái và sẵn lòng rộng lượng thứ tha cho sự lỡ dại của nó. Hùng đã thật sự ăn năn và hối cải đó cũng là một nhân duyên tốt, biết sám hối lỗi lầm nhận ra khiếm khuyết và sai xót của mình. Tự lương tâm thành khẩn sám hối, ăn năn sau này nếu được đưa ra pháp trường để trảm, anh ta chắc chắn cũng được thanh thản ra đi mà không oán giận một ai bởi vì mình làm thì mình phải chịu.

    Trong lúc cận kề với cái chết, nếu người đó biết hướng tâm mạnh mẽ về nẻo thiện và luôn an trú trong chánh niệm tỉnh giác thì cũng chuyển được nghiệp xấu một phần nào. Nhờ vậy, khi bị giết chết không khởi tâm oán giận thù hằn, dù có bị trả quả về sự giết hại của mình cho đến một lúc nào đó quả xấu đã hết, thì sẽ được tái sinh chỗ tốt đẹp để tiếp tục làm lại cuộc đời.

      Trong nhà Phật có nói về tích lũy nghiệp và cận tử nghiệp. Tích lũy nghiệp là nghiệp đã huân tập nhiều đời nhiều kiếp cho đến ngày hôm nay. Cận tử nghiệp là nghiệp mới tạo tác lúc gần chết, hai nghiệp này sẽ chi phối ảnh hưởng lẫn nhau mà quyết định đưa người chết đến cõi lành hay cõi dữ. Nghiệp của chàng sinh viên mê muội đó đã giết hại người tình, trước mắt sẽ chịu án tử hình trong nay mai và nhiều kiếp về sau có thể bị quả báo chết yểu. Nhưng trong thời gian chờ xử án, chàng sinh viên đó biết ăn năn hối cải, nhờ chí tâm hướng thượng mạnh mẽ sẽ có thể thay đổi nghiệp nhân xấu ác của mình nhờ biết hối cải. Vì thế, lúc gần chết rất quan trọng và cần thiết, mặc dù chúng ta làm lành suốt cuộc đời nhưng khi sắp chết, người đó tức tối khởi tâm phiền não, sân hận thì sẽ bị tái sanh vào chỗ dữ.

      Một chút tâm tình cùng chư huynh đệ pháp lữ gần xa, khi mọi người đang sống trong dòng đời nghiệt ngã với bao điều họa phúc nhất là trong tình yêu lứa đôi. Người được hạnh phúc thì ít, kẽ khổ đau thì nhiều, đa số chúng ta đều sống trong vòng lẩn quẩn của tình và tiền nên dễ dẫn đến tù tội. Này các bạn, hãy cùng chúng tôi suy gẫm chính chắn trong vấn đề tình ái, để làm sao chúng ta biết cách vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà làm tròn bổn phận và trách nhiệm đối với gia đình và xã hội.

HẠNH PHÚC TRONG TÌNH YÊU

     Này các em, khi các người trẻ có cơ hội tìm hiểu nhau, mới đầu chỉ là tình bạn thân thiết rồi dần dà phát sinh tình cảm, từ đó tham ái bắt đầu có mặt dẫn đến yêu thương hò hẹn và cuối cùng là kết tình chồng vợ. Tình yêu là một cơ hội tốt để các em nhìn lại chính mình, tìm lại cội nguồn xưa nay để các em thấy được những khó khăn, những vướng mắc, những hạnh phúc, những khổ đau, những cái buồn thương giận ghét của chính mình do thiếu hiểu biết mà gây ra.

    Này các em trong tình yêu thương nam nữ, khi yêu ai các em rất muốn được chia sẻ cuộc đời mình cho người ấy và muốn sống với người mình yêu cho đến trọn đời. Vì vậy, trước khi tiến đến hôn nhân các em nên chịu khó tìm hiểu coi hai đứa có cùng một quan điểm, có cùng một chí hướng và đời sống tâm linh hay không?

    Con người được sinh ra bởi luyến ái sắc dục, chết bởi sắc dục đó là lẽ thường tình của thế gian và cứ như thế mà con người ta chết đi sống lại triền miên trong dòng lục đạo luân hồi không có ngày thôi dứt. Người xuất gia đi ngược lại với dòng đời nên phải cố gắng xa lìa ái dục để thành tựu đạo giác ngộ, giải thoát. Người thế gian tham thì người xuất gia phải không tham, người thế gian mê thì người xuất gia phải có trí tuệ như vậy mới có thể vượt qua những gì người đời yêu thích.

     Nếu các em vì tiếng sét ái tình mà biết yêu quá sớm, trước khi có nghề nghiệp và việc làm ổn định, do nhận thức không đúng đắn, coi chừng vỡ mộng đó em ơi. Tiếng sét ái tình có thể làm cho các em đam mê men say tình ái, nhất là mối tình đầu, các em sẽ choáng váng, sẽ đau thương, sẽ mất mát, sẽ hụt hẳn, sẽ chới với, chơi vơi lạc lỏng giữa dòng đời, như mất đi một cái gì đó rất thiêng liêng và cao quý.

    Các em phải tự gượng lại và đứng lên, để những đam mê buổi đầu không làm cho các em gục ngã. Nếu không các em sẽ bị mất ăn, mất ngủ, không học hành gì được, con người cứ ngơ ngơ, ngáo ngáo, cho đến xanh xao, ốm o, gầy mòn, bỏ bê hết tất cả mọi việc.

    Điên dại và cuồng si nhất, vẫn là một thứ tình yêu đơn phương không gì đau khổ hơn, mình yêu người mà người không đáp lại, người đi yêu người khác, nhưng người khác cũng chẳng yêu người. Đúng là theo tình, tình phụ, phụ tình, tình theo, sự đời có nhiều cái tréo ngoe như vậy. Bạn bè cùng chung một lớp nhưng hai người bạn trai lại đi thương cùng một người bạn gái, vậy hẳn nhiên là có người được kẻ mất. Khi vướng vào vòng này con người hầu như mất hết năng lực sống không còn thiết tha gì nữa, nằm vùi vật mê man, trong men say tình ái.

    Các em hãy nên thận trọng dè dặt trong tình yêu của buổi ban đầu khi còn trẻ, rất nhiều em bị khủng hoảng tinh thần mất hết niềm tin trong cuộc sống, vì thế mà lao vào các cuộc vui chơi trác táng suốt sáng đêm thâu để trả thù đời. Càng như thế thì các em sẽ tự dìm chết đời mình trong hoan lạc vô bổ ấy và chắc chắn rằng trong nay mai các sẽ rơi vào vòng tội lỗi.

    Nếu trong quan hệ tình yêu lứa đôi, một trong hai người dính vào vòng si mê nghiện ngập, nên thường xuyên làm đau khổ cho nhau. Các em sau một thời gian tận tụy hy sinh để thuyết phục người bạn đời của mình dứt phát chừa bỏ, nhưng không có hiệu quả thì biết rằng mối tình của em sẽ mang đến nhiều phiền muộn khổ đau vô cùng cực. Ai đã từng dính vào vòng này cũng đều phải bỏ cuộc hết, phải mạnh dạn chia tay, cắt đứt quan hệ tình ái thì họa may mới còn có con đường sống. Bằng không thì anh chích xì ke em bán ma túy, hai người đi vào con đường tội lỗi và cuối cùng vướng vào vòng tù tội.

    Khi hai người yêu nhau mà không có cùng quan điểm chí hướng, tức là không có sự đồng cảm với nhau, không biết lắng nghe, không biết bao dung và độ lượng, thì những nỗi khổ niềm đau sẽ có mặt làm cho tình yêu bị rạn nứt và cuối cùng dẫn đến chia tay.

    Này các em trong tình yêu, thường là sự lợi dụng lẫn nhau qua xác thịt nếu các em không có hiểu biết chân chính, không có tình yêu thương chân thành, nếu chỉ một bề biết hưởng thụ cho riêng mình mà không có sự hòa hợp của hai trái tim với nhau. Tình yêu ấy chỉ mang nhiều hệ lụy khổ đau vì không có sự cảm thông của hai bên.

     Muốn cho tình yêu được bền vững và lâu dài, khi yêu nhau ta phải biết tôn kính và tôn trọng lẫn nhau, người con gái phải tự giữ gìn, người con trai cũng phải biết gìn giữ cho người con gái. Giữa hai người cần có sự thông cảm và độ lượng, trong tình yêu chân thật các em không nên đưa tình dục lên hàng đầu ngoài việc chăn gối ra, còn có trách nhiệm và bổn phận thương yêu bảo bọc cho nhau, còn phải quan tâm nuôi dạy con cái hướng về chân thiện mỹ để chúng biết thương người và vật. Không có gì đẹp hơn bằng tình yêu chân thật, hai đứa biết lo lắng cho nhau, biết chia sẻ để làm vơi bớt nỗi khổ niềm đau, biết vun bồi để càng ngày càng được hiểu và thương hơn.

   Tình yêu lứa đôi là sự kết hợp của hai con tim, bằng sợi dây ân ái, nhưng ân ái phải có sự hiểu biết, tôn trọng, tiết chế chừng mực mới bảo đảm hạnh phúc lâu dài. 

    Nhưng chúng ta nên nhớ một điều, dục là một loại đam mê ham muốn rất mạnh nó như là một thứ lửa rơm bừng cháy và tàn lụi cũng rất nhanh. Dục chỉ là phần thô thiển bên ngoài, nhưng ái mới là quan trọng và thiết yếu, ái là cảm thọ nhận thức thuộc về phần tinh thần.

    Bé Hương sinh ra và lớn lên nơi miền quê xa xôi hẽo lánh, chưa học hết lớp năm em đã nghĩ học. Thanh một chàng trai xóm trên hơn em hai tuổi, hai đứa quen nhau một thời gian rồi quyết định đi đến hôn nhân. Lúc đó bé Hương mới 15 tuổi, Thanh 17 tuổi. Cha mẹ Thanh đồng ý chấp nhận cho Thanh lấy Hương làm vợ. Ngược lại cha mẹ bé Hương không chấp nhận vì hai đứa còn quá nhỏ, từ đó gia đình bé Hương cấm không cho hai đứa liên hệ qua lại với nhau. Em Hương bị gia đình quản thúc một cách chặt chẻ, nên không có cơ hội được gặp người yêu.

    Trong khi đó thì hai em đã thề non hẹn biển kiếp này phải sống trọn đời bên nhau, nếu không thì…Thật ra Hương còn quá nhỏ, cái tuổi ăn chưa no lo chưa tới, đáng lẽ tuổi đời như em cần phải được ngồi trong ghế nhà trường để được hưởng những cái hồn nhiên của tuổi thơ, để được nghe những lời dạy của thầy cô giáo, nhưng em không được diễm phúc đó vì thiếu hiểu biết. Em nghỉ học sớm, biết yêu sớm để tâm hồn em bị nhuốm bụi trần theo men say tình ái. Em chưa đủ nhận thức sáng suốt và chưa có việc làm ổn định, đáng lẽ em phải biết nghe lời khuyên của cha mẹ chờ vài năm nữa rồi sẽ tính sau, thì đâu có chuyện gì xảy ra.

     Đằng này vì em biết yêu quá sớm, trong khi đó em chưa đủ tuổi làm giấy kết hôn theo luật pháp quy định. Nếu giả sử như, cha mẹ em đồng ý cho em lấy chồng, vô tình hại cuộc đời của em vì luật hôn nhân cho phép hai người lấy nhau khi từ 18 tuổi trở lên. Dưới 18 tuổi coi như vi phạm luật hôn nhân tùy theo mức độ tuổi tác mà bị sự lý thích đáng. Đó là vấn đề thứ nhất, vấn đề thứ hai em chưa có nghề nghiệp chính đáng để nuôi sống bản thân, bạn em mới 17 tuổi sẽ làm gì để nuôi em. Hay là hai đứa lấy nhau với quan niệm trời sinh voi sinh cỏ, đến khi có con ai sẽ nuôi con em trong khi đó hai em ăn chưa no lo chưa tới, thì làm sao có đủ khả năng nuôi con để đảm bảo tương lai sau này. Nếu em biết suy nghĩ lại, ráng nghe lời khuyên của cha mẹ, rồi cố gắng hun đúc tình yêu của hai đứa bằng cách động viên an ủi nhau chờ đợi.

    Trong thời gian đó, hai em phải kiếm một việc làm nào đó để tích luỹ dành dụm tiền bạc, chờ ngày đến tuổi trưởng thành rồi lấy nhau thì cha mẹ em nào dám ngăn cản. Em vì quá vội vàng trong men say tình ái, không biết nhận định đúng sai nên đã dại dột kết liễu đời mình bằng chai thuốc rày. Em sẽ trở thành con ma vất vưỡng lang thang vô định vì không được yêu và em sẽ khổ nhiều hơn, khi thấy người yêu mình lấy vợ. Em sẽ kêu gàu thét lên trong khổ đau và tuyệt vọng?

     Thật ra chúng tôi đã từng chứng kiến nhiều cuộc tình, vì không được yêu bị sự ngăn cấm của gia đình có khi hai đứa cùng tự tử, có khi một đứa tự tử hoặc gái hay trai. Và không biết bao nhiêu người trẻ phải chết như thế, một thứ tình yêu mù quáng, dại khờ, đam mê trong điên loạn. Các em hãy nghe bài thơ này, không biết xuất xứ từ đâu mà chúng tôi còn nhớ khi đi học.

          Chòng chành như nón không quai

          Như thuyền không lái như ai không chồng

          Gái có chồng như gông đeo cổ

          Gái không chồng như phản gỗ long đanh.

          Anh lấy em từ thuở mười ba

          Đến năm mười tám thiếp đà năm con

          Ra đường thiếp hãy còn son

          Về nhà thiếp đã năm con cùng chồng.

    Cái bài hát này tôi đã nghe đâu đó, như chế giểu cái thứ tình yêu con nít, con nôi, cái miệng còn hôi sữa bò mà bày đặt yêu thương, hỏi làm sao thật sự có hạnh phúc chân thật khi lấy nhau từ tuổi ấy. Ngày nay luật hôn nhân gia đình đã bắt buộc nam nữ phải 18 tuổi trở lên mới được quyền lấy nhau. Vì tuổi này các em mới có đủ trình độ hiểu biết về cuộc sống lứa đôi, mới có đủ khả năng thương yêu và sẵn sàng hy sinh san sẻ cho nhau mỗi khi cơm ngon canh không ngọt.

    Ấy thế mà, hiện nay tình trạng ly dị đã chiếm gần 40%, cuộc sống tiến bộ về văn minh vật chất càng nhiều, càng làm cho con người quên đi đời sống tâm linh của chính mình. Xã hội hiện thời là một cái máy quay không ngừng nghỉ, làm cho con người cứ mãi lăng xăng tất bật với mọi thứ nhu cầu, nên không có thời gian quay về chính mình.

    Yêu nhau là phải hiểu nhau và thông cảm cho nhau, các em không thấy sao, tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ, đời mất vui khi đã vẹn câu thề. Đó là một sự thật, càng yêu nhiều là càng khổ nhiều nếu không biết bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ cho nhau.

     Có nhiều chuyện tình thật trớ trêu, hai đứa lấy nhau vì cha mẹ bắt buộc họ không có tình yêu thật sự, trái tim của họ không biết rung động trong ái ân. Mặc dầu đang ngủ với chồng hoặc vợ, hai thân xác cùng quấn quít lấy nhau một cách say đắm, nhưng tâm tư thì đang hướng về người mình yêu. Nhìn vào gia đình họ tưởng như là thiên đường hạnh phúc, ai cũng khao khát muốn được như thế, nhưng thật ra họ chỉ sống vì cha, vì mẹ, vì con, vì cái, chớ không có tình yêu thương thật sự giữa hai người.

    Khi các em có hạnh phúc trong tình yêu chân thật thì dễ dàng cảm thông và tha thứ cho nhau, vì những thói quen không được tốt đẹp của mỗi người. Các em nam cần phải biết quan tâm nói những lời khen ngợi về tài năng và đức hạnh của phái đẹp. Ngược lại người nữ phải biết xử lý sắp xếp việc nhà một cách tốt đẹp và hài hòa. Đây là nói theo quan niệm khi xưa người phụ nữ chỉ lo việc trong nhà, sinh con và nuôi dạy con cái là chính.

     Các em nam phải biết tôn trọng phái đẹp, phái yếu phải biết quan tâm lo lắng chăm sóc chia sẻ, để giúp người yêu đạt được những ước mơ, những hoài bão, những thao thức trăn trở về lý tưởng sống của hai người.

    Ngày nay người phụ nữ vừa đi làm, vừa gánh lấy trách nhiệm nội trợ nên cuộc sống có phần nhọc nhằn hơn. Các em nam phải biết gánh vác và chia sẻ công việc trong nhà nếu hai người cùng đi làm. Và điểm đáng quan tâm là các em nam không nên khinh thường phái đẹp, nói những lời miệt thị, mắng chửi như tôi tớ theo quan điểm chồng chúa vợ tôi, khiến phái đẹp sinh tâm buồn giận đau khổ.

    Đây là thể hiện tinh thần bình đẳng trong tình chồng vợ là bình đẳng trong tình người với nhau, không phân biệt nam hay nữ. Có một số người họ nói rằng trời sinh ra phụ nữ để phục vụ cho đàn ông và có nhiệm vụ sinh con, đẻ cái để nối dõi tông đường. Ông trời nào làm như vậy là ông trời tàn ác không có đạo đức, nếu ông ta có đủ khả năng ban phước giáng họa, tại sao ông không ban phước hết cho tất cả chúng sinh để mọi người đều được an vui hạnh phúc đi. Nhưng đằng này người hạnh phúc thì ít, kẻ khổ đau thì nhiều, chỉ có luật nhân quả âm thầm chi phối tác động theo nghiệp báo đã tạo ra mà thôi mình làm lành được hưởng phúc, mình làm ác chịu khổ đau.

    Đã là đấng mày râu thì không nên khinh thường phái đẹp, nhưng ngược lại các em nữ phải đối đãi tốt với những người giúp việc cho chồng, đây là quan niệm theo xưa. Phụ nữ ngày nay đảm đương công việc không thua gì nam giới và gánh luôn trách nhiệm nội trợ, cho nên áp lực công việc đè nặng lên hai vai phái nữ nhiều hơn. Chính vì vậy mà các em nam hãy nên trung thành với vợ, để gia đình được ấm êm hạnh phúc và ngược lại các em nữ không được ngoại tình lang chạ với người khác, để gia đình không xảy ra tình trạng ông ăn chả, bà ăn nem, làm ảnh hưởng đến đời sống cho con cái sau này.

    Tình yêu lứa đôi là nền tảng hạnh phúc của gia đình và xã hội. Nếu trong nhà không êm ấm hạnh phúc, sẽ làm cho xã hội thêm phần gánh nặng, vì phải xử lý hoà giải các tệ nạn không tốt do con người gây ra. Gia đình êm ấm hạnh phúc thủy chung, sẽ giúp cho con cái sống tốt hơn khi trưởng thành.

    Các em nam khi có gia đình phải mạnh dạn giao quyền cho phái nữ tức là biết tôn trọng và tin tưởng vợ mình. Vì người phụ nữ lúc nào cũng quán xuyến việc nhà tốt đẹp hơn đàn ông. Chồng mà đưa tiền chợ mỗi bữa cho vợ chẳng khác nào coi vợ mình như người giúp việc trong nhà, đó gọi là loại đàn ông ích kỷ, nhỏ mọn và hẹp hòi không độ lượng.

     Ngược lại người nữ phải biết giữ gìn tiền bạc tài sản cho chồng, không nên cất giấu riêng tư hoặc cờ bạc đàn điếm làm hao hụt tiền bạc và gia sản chung của gia đình.

    Thích chưng diện làm đẹp, mang đồ trang sức là bản chất và thói quen của người phụ nữ. Khi mới yêu nhau các em nam thường tặng quà cho phái đẹp để lấy lòng người yêu. Nhưng đến khi đã là vợ chồng rồi, thì việc tặng quà cho nhau trở nên lợt lạt theo thời gian. Đối với người chồng việc quan tâm lo lắng mua đồ trang sức cho vợ, tặng quà cho nhau là sự an ủi khích lệ để cùng nhau sống vui vẻ hạnh phúc, là mục đích hâm nóng lại tình yêu của buổi đầu khi mới yêu nhau. Ngược lại người phụ nữ phải tinh cần siêng năng tháo vát trong mọi công việc, để cho vuông tròn mọi việc trong ngoài đều được tốt đẹp, hài hòa.

    Trong tình yêu thương chân thật con người ta sống về nghĩa nhiều hơn, cái tình yêu lứa đôi thường mang đến sự vị kỷ chỉ biết lợi dụng thân xác của nhau mà thôi. Còn trong tình nghĩa nó có sự lắng nghe, có sự cảm thông sẵn sàng chia sẻ nỗi khổ niềm đau cho nhau, có sự bao dung và độ lượng, không đặt nặng tình dục lên hàng đầu.

    Đã làm người ai không còn sơ xót và khiếm khuyết, các em nam thường dính vào tứ đổ tường cờ bạc, rượu chè, hút xách, đàn điếm nhẹ lắm cũng dính vô tật hút thuốc và lăng nhăng trong tình ái. Và hai cái tật lớn của đàn ông là tửu sắc “uống rượu và sắc đẹp” hầu như nó cũng là thói quen thâm căn cố đế của người nam.

     Thứ nhất theo quan niệm khi xưa chồng chúa vợ tôi: Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ một chồng. Thượng đế tạo ra phụ nữ để phục vụ cho đàn ông và sinh con, đẻ cái để nối dõi tông đường, xuất phát từ chế độ phong kiến nhiều vợ từ vua quan mà ra. Chính vì vậy mà nó đã ăn sâu vào tâm khảm của người đàn ông trong mọi thời đại.

    Vấn đề thứ hai là uống rượu, rượu đi đôi với sắc đẹp, làm vua thì có cả hàng trăm cung phi mỹ nữ muốn hưởng thụ đầy đủ ngoài các món ăn cao lương mỹ vị, thì phải đi kèm theo rượu mới tiêu hóa hết các thức ăn rồi sau đó ân ái cùng giai nhân. Vua vì có quá nhiều cung phi mỹ nữ, nhưng sợ thái giám phỏng tay trên, nên ai làm thái giám đều bị thiến hết. Làm người ai cũng ham muốn tình yêu xác thịt, giờ thì của quý bị triệt tiêu thành ra ham muốn mà không làm gì được. Cuối cùng bị đè nén ức chế lâu ngày thành ra lơ lớ, tâm sinh lý bị biến dạng thay đổi theo thời gian, ngày nay những người có geen đó gọi là pê đê hay đồng tính.

   Vua làm được thì các quan quyền cũng bắt chước làm theo hưởng thụ lâu ngày như thế, trở thành một thói quen thâm căn cố đế khó bao giờ bỏ được. Vua quan làm được dân chúng cũng bắt chước làm theo, lâu ngày chày tháng trở thành bình thường và cứ như thế mà tiếp tục tái diễn từ đời này qua kiếp nọ. Trong một trăm người đàn ông có đến chín mươi lăm người dính vào một trong bốn món tứ đổ tường : cờ bạc, rượu chè, hút xách, đàn điếm.

    Ngày xưa đàn ông là trụ cột của gia đình, là lao động chính đem tiền bạc về nuôi vợ con, nên được quyền ăn trên ngồi trước và thê thiếp đầy nhà. Chính vì thế khi họ có quyền hành trong tay, thì tìm đủ mọi cách thu gom vơ vét về cho riêng mình nhiều hơn. Như vậy mới đủ khả năng đáp ứng nhu cầu phục vụ chi tiêu hằng ngày, do đó người đàn ông khó buông xả bớt để giúp người cứu vật.

    Ngược lại người phụ nữ vì có thiên chức làm mẹ nên sống rất tình cảm, lúc nào cũng cho ra nhiều hơn, phải nuôi con, phải chia sẻ cho con hết tất cả để con được mạnh khỏe mau khôn lớn. Song người nữ thích làm đẹp, thích trang sức, để tạo sự hấp dẫn cho đấng mày râu vì quan niệm chồng chúa vợ tôi nhiều thê thiếp, nếu mình không đẹp đẽ dễ thương duyên dáng, sẽ bị chồng bỏ rơi. Đàn ông lúc nào cũng háo sắc, cho nên phụ nữ lúc nào cũng muốn làm đẹp để được lòng chàng, được lòng thì vinh hoa phú quý đi kèm theo. Nhờ vậy có thể giúp đỡ gia đình người thân, thăng quan tiến chức dễ dàng và có được cơm no áo ấm trong cuộc sống hiện tại.

    Phái đẹp thiên về tình cảm nên rất thích được khen ngợi tăng bốc, phụ nữ yêu bằng tai, đàn ông yêu bằng mắt. Chính vì có thiên chức làm mẹ nên người nữ dễ dàng chia sẻ làm phước hơn đàn ông. Đàn ông quan niệm thu vô để hưởng thụ cho mình nhiều hơn, người nữ quan niệm cho ra vì phải mang nặng đẻ đau, hy sinh vất vả nhọc nhằn để nuôi con khôn lớn.

     Muốn bảo vệ hạnh phúc gia đình và sống với nhau bằng tình yêu thương chân thật, thì người đàn ông phải giảm bớt các thói quen hưởng thụ quá đáng, thói quen chồng chúa vợ tôi, thói quen gia trưởng, nếu dứt hẳn được thì càng tốt. Nếu không gia đình khó bao giờ bảo đảm có được hạnh phúc thật sự.

    Phái đẹp cũng vậy phải biết gìn giữ tài sản chung cho gia đình, không nên se sua chưng diện quá mức hoặc tiêu xài mua sắm lãng phí vô ích. Thế giới ngày nay sở dĩ kinh doanh mua bán được là nhờ sự tiêu thụ quá mức của người phụ nữ, nhiều nhà quá xa xỉ để chứng tỏ đẳng cấp giàu sang của mình.

     Thói quen của người nữ thích làm đẹp, thích chưng diện, thích sắm sửa trưng bày đủ thứ, có nhiều món đồ không xài cũng mua về để đó. Sợ già, sợ xấu, sợ mọi người chê, sợ chồng bỏ, nên lúc nào cũng trang điểm làm dáng, làm duyên nhờ vậy mà các thẩm mỹ viện làm đẹp mau làm giàu. Lại còn hay có tật thích khen ngợi tăng bốc, nên mấy anh chàng sở khanh mới dễ dàng lừa đảo từ chỗ yếu điểm đó.

    Tóm lại muốn cho tình yêu được bền vững và lâu dài cho đến ngày răng long tóc bạc, thì hai người phải sống có tình có nghĩa với nhau. Tình là tình ân ái, nghĩa là nghĩa vợ chồng, trong đó còn có con cái, đây là sợi dây ràng buộc làm cho tình yêu thương càng thêm gắn bó hơn. Tình yêu lứa đôi chỉ thật sự hạnh phúc khi hai người có cùng quan điểm, có cùng chí hướng, có cùng một tâm linh, một tâm linh trong sạch và thánh thiện là người phải có lòng từ bi rộng lớn.

    Người có lòng từ thì không sát sinh hại vật, người hay giúp đỡ chia sẻ kẻ bất hạnh thì không bao giờ trộm cướp của ai. Người có đạo đức tốt biết tiết chế trong sinh hoạt tình dục thì không bao giờ lang chạ ngoại tình với người không phải là vợ chồng chính thức. Nếu các em là người con Phật và biết gìn giữ năm điều đạo đức, thì các em sẽ có một tình yêu chân thật hiểu biết và yêu thương, biết thông cảm cho nhau, biết chia sẻ cho nhau, biết tha thứ cho nhau, biết vun đắp cho nhau và luôn giữ cho nhau, mãi mãi tình yêu thương trong sáng, bằng trái tim hiểu biết.

ÁI NẶNG TÌNH SÂU QUÊN TÌNH CHA MẸ.

     Tiếng sét ái tình nó làm cho con người ta tê tái cả tâm hồn như si như dại, trên đời này không có gì yêu thương sâu đậm thiết tha bằng tình ái. Trong ái tình, việc chung chăn xẻ gối giữa vợ chồng với nhau có khi lướt qua tình cha mẹ, có người thà bỏ cha mẹ chứ không thể xa rời tình ái. Sự thật quá đau lòng, ít người nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, mẹ mang nặng đẻ đau, cha làm lụng nhọc nhằn vất vả nuôi con. Đến khi khôn lớn cha mẹ dựng vợ gã chồng cho con, để cho con được yên bề gia thế.

     Do si mê trong tình ái và bị sự ràng buộc của vợ chồng, nên chúng ta chỉ biết lo cho vợ chồng con cái mình nhiều hơn. Mấy ai thấu hiểu công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha, biết ơn và đền ơn là đạo lý uống nước nhớ nguồn, luôn nhắc nhở chúng ta nên biết cung kính hiếu dưỡng mẹ cha.

   Chúng ta nên nhớ từ khi mở mắt chào đời mẹ đã móm cho con dòng sữa ngọt, dòng sữa ấy là chất liệu ngọt ngào được kết tinh bằng tấm lòng yêu thương của cha mẹ. Nhưng vì lỗ mũi con người lúc nào cũng nhìn xuống, cho nên ai lớn khôn rồi lập gia đình và có trách nhiệm nuôi dạy bảo bọc vợ con và lo lắng cho gia đình riêng của mình nhiều hơn là thương yêu cha mẹ, để cung kính phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già, chuyện đời là như thế đó.   

    Trong cuộc sống của chúng ta, có những lúc ta phải tự hỏi rằng: Ta sống trên đời này để làm gì? Và ta từ đâu đến? Sau khi chết ta sẽ đi đâu? Và ý nghĩa thật sự cho cuộc đời của chúng ta là gì? Tại sao ta không thật sự tìm thấy bình yên hạnh phúc trong cuộc đời của mình? Ta phải làm gì để tìm ra nguyên lý chánh đáng cho cuộc đời của mình? Quả thật, một con người ai cũng được sinh từ sự luyến ái của cha mẹ mà có nên hình hài dóc dáng này, đó là quy luật chung cho loài người chúng ta.    

    Đời sống con người thật là phong phú và cũng lắm nhiều rắc rối, bởi vì con người biết suy nghĩ, biết nói năng, biết hành động. Nếu suy nghĩ, nói năng, hành động theo chiều hướng tốt đẹp thì lợi ích cho mình người thân, gia đình và xã hội. Ngược lại, gây ra phiền muộn, khổ đau cho nhân loại.

    Và cho đến sau khi chết, sự sống vẫn tiếp tục dưới nhiều hình thức khác nó chỉ thay hình đổi dạng tuỳ theo nghiệp nhân tốt hay xấu mà ta đã gieo trong hiện tại. Dù tu chứng đến thành Phật thì các Ngài vẫn có chuyện để làm, tiếp tục công việc độ sinh đó là hạnh nguyện cao cả của các vị Bồ tát tuỳ duyên trở lại thế gian để giúp đỡ nhân loại dưới nhiều hình thức khác nhau và công việc đó không bao giờ chấm dứt. Mạng sống của con người có ngày chấm dứt để thay hình đổi dạng, nhưng sự sống và dòng đời luôn luôn trôi chảy không cùng tận.

    Tình ái vốn là nguồn gốc của sinh tử, mà cũng là điều kiện tất yếu để cho tất cả chúng sinh hiện hữu trong cõi Ta bà vui ít khổ nhiều này. Ái là lòng yêu thương từ cha mẹ, vợ con, anh em, bằng hữu, công danh, phú quý, văn chương, thi phú, đạo thuật, kỹ nghệ, quần áo, ăn mặc, nhà cửa, ruộng vườn, rừng suối, hoa cỏ, phong cảnh đẹp đẽ v.v…

     Vậy cội gốc của sinh tử là gì? Người xưa nói: “Nghiệp không nặng không sinh vào cõi Ta bà, lòng tham ái không dứt không sinh vào Tịnh độ”. Nên biết, ái là nguồn gốc của sinh tử. Người không biết nguồn gốc của sinh tử, chỉ tu niệm một bên, thì chỉ hưởng phước báo cõi trời người. Vì thế, những người tu theo Phật, trước tiên, cần biết lòng luyến ái tham đắm là nguồn gốc của sinh tử, muốn được tự tại, giải thoát chúng ta cần phải đoạn dứt nguồn gốc tham ái ấy. Như trước mặt chúng ta thấy vợ chồng con cái, gia nghiệp, tài sản, địa vị danh vọng ta phải nghĩ rằng: Tất cả những thứ này khi chết không mang theo được, kẻ ở người đi càng thêm lưu luyến mà không ra khỏi luân hồi sinh tử.


     Con người ai cũng sống bằng tình yêu thương chân thật thì chắc hẳn mọi thứ xung quanh ta sẽ tốt đẹp vô cùng. Bầu trời này sẽ trong sáng, quang đãng và không còn những áng mây đen mù mịt, mặt đất này sẽ không còn những cảnh lầm than, cơ cực, và những chuyện đau thương vì hiểu biết sai lầm mà gây khổ đau cho nhau.

    Tình cảm nó giống như những hạt mưa, mưa càng to thì có thể dập tắt đi ngọn lửa tham lam ích kỷ, sự căm hờn của lòng thù hận bởi ganh ghét và tật đố, nhưng nó có thể là ngọn lửa của tình thương yêu, ước mơ và hy vọng, bằng sự khoan dung của trái tim hiểu biết, cùng san sẻ cho nhau với tấm lòng vị tha. Tại sao chúng ta lại để cho những ngọn lửa ấy lại vụt tắt đi trong đêm tối vô minh.

    Tình thương yêu chân thành, hay nỗi xót xa những mãnh đời bất hạnh sự cảm thông để cùng nhau san sẻ hoặc nâng đỡ, và tha thứ cho nhau đều xuất phát từ “tình thương yêu chân thật”. Nếu một khi chúng ta đã đánh mất giá trị và phẩm chất bằng tình người trong cuộc sống thì ta đã tự tách mình ra khỏi thế giới của hiểu biết, nhận thức đúng đắn và con người tâm linh của chính mình.

     Hạnh phúc lớn nhất của con người khi còn tồn tại trong thế giới này đó chính là được sống hoà hợp với nhau, được tắm mình trong biển cả bao la tràn đầy tình yêu thương chân thật của mọi người.

      Người xưa nói: “mất của cải là mất ít, mất tình thương là mất nhiều” và có khi ta mất hết tất cả vì tham ái, si mê. Thật vậy một người sống mà không có tình cảm thì trở nên hung ác và tàn nhẫn vô cùng, cha có thể giết con, vợ chồng không biết tôn trọng nhau, anh em tranh giành của cải, bạn bè vì quyền lợi của riêng mình mà hại nhau. Tất cả là vì họ không có tình thương yêu chân thật, nên không biết cảm thông và tha thứ cho nhau.

     Chúng ta hãy nên sống bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, bằng chính những gì mà ta đã có được, chúng ta sống bằng tình người và đừng để cho cái bệnh vô cảm len lỏi vào đời sống này, hãy lấy tình thương yêu nhân loại mà làm ngôi vị trung tâm của cuộc sống, hãy mở rộng trái tim mình, hãy quan tâm và chia sẻ đến nhiều người hơn, hãy thông cảm và sẵn sàng nâng đỡ những mảnh đời bất hạnh, hãy biết quý trọng tình cảm và tha thứ lỗi lầm của người khác.

    Hằng ngày chúng ta thường đối mặt với những bộn bề của cuộc sống, nhiều lo toan trong công việc hay có lúc chúng ta đắm chìm  trong những phút giây lạc thú, vui vẻ bên bạn bè mà đã lãng quên đi phút giây êm đềm, hạnh phúc, những hình ảnh thiêng liêng cao cả của cha mẹ, người ngày đêm thương nhớ, mong chờ, dõi theo bước chân của chúng ta trong từng phút, từng giây.

    Ngày xưa, ở một kiếp nọ Mục Kiền Liên được sinh ra trong một gia đình trung lưu giàu có tuy đã đến tuổi trưởng thành nhưng chàng không thèm cưới vợ, định ở vậy để nuôi dưỡng báo hiếu cha mẹ già. Vì muốn có con nối dõi tông đường kế thừa gia phong nên cha mẹ ép chàng lấy vợ.

    Chàng nhiều lần từ chối nhưng cha mẹ không chịu cuối cùng vì thương cha mẹ nên chàng đành chấp nhận cưới vợ. Buổi ban đầu khi cô con dâu mới về nhà chồng, cô ta nuôi dưỡng chăm sóc cha mẹ chồng chu đáo và làm tròn bổn phận đối với người vợ, làm cho những nhà hàng xóm ước ao và ganh tị, phải chi cô ta là con dâu nhà mình thì vui vẻ và hạnh phúc biết mấy.

   Rồi thời gian lặng lẽ trôi qua theo năm tháng, cha mẹ già ngày lớn tuổi bị bệnh mù lòa đôi mắt, làm cho người vợ càng thêm khổ sở nhọc nhằn, đã vậy còn hay bị la rầy vô cớ không có một ngày được an lạc thảnh thơi. Người vợ trẻ đó lớp thì phải chăm sóc nuôi dạy con cái, lớp thì phải chăm sóc cha mẹ già mù loà, công việc cứ như thế xảy ra hằng ngày làm cho nàng dây sinh tâm cau có bực dọc và oán giận cha mẹ chồng.

    Do áp lực công việc gia đình, ngày nào cô ta cũng trách móc cằn nhằn với chồng về chuyện cha mẹ già lớn tuổi sanh tật khó khăn, trách móc đủ điều làm cho chàng khó xử bởi vì phải lo cơm áo gạo tiền cho cả gia đình. Cô vợ than phân, trách phận nói rằng mình bạc phước nên phải chịu khốn khổ như thế này mỗi ngày, nào là cha mẹ cơm nước đổ rãi lung tung, ăn uống tắm rửa giặt giủ tiểu tiện khó khăn, vậy mà cha mẹ lúc nào cũng than vãn trách móc cằn nhằn khó chịu, có khi còn chửi mắng nạt nộ cô. Cô vợ luôn tạo ra hoàn cảnh trái ngang, éo le để bắt buộc chồng mình phải chọn lựa.

    Một là anh nếu vì cha mẹ thì vợ chồng chúng ta chia tay kể từ đây, nếu vì em và sự nghiệp cho con cái về sau thì trong hai anh phải chọn một. Một là nuôi cha mẹ hay là nuôi vợ con.

    Trong hoàn cảnh éo le cha mẹ già mù lòa, cuộc sống gia đình ngày càng thêm khó khăn, chật vật làm cho người chồng thêm lo lắng đủ điều, không biết giải quyết cách nào để cho trọn vẹn bên hiếu và bên tình. Người chồng cứ đắn đo suy nghĩ mãi, vì điệp khúc này cứ được lập đi lập lại mỗi ngày. Bên hiếu bên tình, chọn bên nào đây? Chàng vì thương cha mẹ già mù loà đôi mắt nên bỏ không đành, khi nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục mang nặng đẻ đau, nhờ vậy mà ngày hôm nay mình có mái ấm gia đình, gặp cô vợ quá khắc khe và tham lam ích kỷ, làm cho người chồng khó xử!

    Thật ra trong cuộc đời này, không có gì thiêng liêng và cao quý bằng công ơn cha mẹ, trong các thứ tình không tình nào bằng tình mẹ cha, nhưng có mấy ai hiếu kính và nuôi dưỡng cha mẹ khi tuổi già ? Cha mẹ tuổi già thường hay bệnh hoạn đau nhức lại không làm được việc gì giúp ích cho con cháu, đó là thêm gánh nặng cho gia đình, vừa tốn kém vừa nhọc nhằn, nên ngày xưa hay có quan niệm đem bỏ cha mẹ vào rừng khi tuổi già.

     Có một người cha đang đóng chiếc xe để chở cha mình bỏ vào rừng, một hôm đứa con biết được mới nói, khi nào ba đưa nội đi ba nhớ đem xe về nhà cho con, người cha mới hỏi đem xe về nhà cho con để làm gì? Dạ thưa cha, con để dành chiếc xe đó chờ đến khi nào ba tuổi đã già, con sẽ lấy xe chở ba đi cũng như ông nội ngày hôm nay. Người cha nghe con mình nói như vậy, ngẫm nghĩ lại một hồi lâu, rồi từ bỏ ý định chở cha mình vào rừng nữa và từ đó bắt đầu chăm sóc ân cần chu đáo hơn, để đền đáp công sinh thành dưỡng dục.

     Nuôi cha mẹ lúc tuổi già rất khó, vì thân thể bệnh hoạn yếu đuối, đi đứng khó khăn hoặc bệnh tình nặng hơn phải nằm một chỗ, nếu gia đình nào nghèo khổ thiếu thốn khó khăn thì việc chăm sóc và nuôi dưỡng cha mẹ lúc tuổi già rất khó. Nhiều khi con cái bận bịu công việc nên lơ là trong việc chăm sóc thì cha mẹ trách móc đủ điều, giận dỗi, hờn mát thật khó lòng.

    Một hôm đức Phật lấy một ít đất để trên đầu ngón tay, rồi hỏi các thầy tỳ kheo, đất trên đầu ngón tay ta nhiều hay đất trên quả địa cầu này nhiều? Các thầy tỳ kheo đồng trả lời : Dạ đất trên quả địa cầu nhiều ạ. Phật nói tiếp, người có hiếu đối với cha mẹ trên thế gian này rất ít.

     Bởi vì hoàn cảnh đã làm cho con người phải vật lộn với cuộc sống mà kiếm miếng ăn nên đâu có thời gian chăm sóc cha mẹ già và nuôi dạy con cái đúng mức. Phật lúc nào cũng vì lòng từ bi thương xót chúng ta nên Ngài nhắc nhở và chỉ dạy cho ta biết được đạo lý làm người là luôn hiếu kính và dưỡng nuôi cha mẹ.

    Uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây là câu ca dao tục ngữ của dân tộc Việt Nam mà tổ tiên ông bà chúng ta luôn nhắc nhở con cháu để biết nhớ ơn và đền ơn cha mẹ. Cha mẹ là hai đấng sinh thành và nuôi dưỡng cho ta nên người vậy mà ta không còn biết ơn, hỏi sao người khác ta có thể giúp đỡ và chia sẻ cho được.

    Chàng trai đó không nỡ nhẫn tâm bỏ cha mẹ, nhưng hoàn cảnh lúc đó thật là khó xử vô cùng, ngày nào cũng điệp khúc ai oán cung sầu, mà người vợ trẻ lúc nào cũng khóc lóc kể lễ, đầu bù tóc rối, mặt mày bí xị, nước mắt ràn rụa, khiến người chồng càng thêm buồn khổ không biết giải quyết cách nào đây. Tình chung chăn xẻ gối, cùng với sắc đẹp mặn mà của người vợ trẻ, và tương lai của con mình về sau như có một ma lực bắt buộc người chồng trong hai phải chọn một.

    Đêm đó, người chồng không sao ngủ được vì chuyện vợ con và cha mẹ. Nước mắt đã lăn tròn trên đôi má của chàng và không còn cách nào khác hơn, thà chấp nhận bỏ cha mẹ mà nuôi vợ, nuôi con.

   Nghĩ vậy sáng hôm sau, chàng trai mới đến thủ thỉ với cha mẹ rằng: Bây giờ cha mẹ đã lớn tuổi rồi, không còn biết sống bao lâu nữa, nay con thỉnh cha mẹ về quê, thăm gia tộc nội ngoại một lần sau cuối để sau này nhắm mắt lìa đời, khỏi phải ân hận tiếc nuối quê cha đất tổ.

    Cha mẹ, nghe con mình nói có lý nên đồng ý đi ngay. Ngờ đâu bị rơi vào bẫy của người vợ ác tâm. Con người ta do tham cầu quá mức nên mất hết phẩm chất nhân cách đạo đức, chỉ biết thủ lợi cho riêng mình còn ai sống chết mặc kệ, sẵn sàng làm những điều tội lỗi để bảo vệ cái ta ích kỷ của mình. Ít ai nghĩ đến công sinh thành dưỡng dục của mẹ cha, thâm ân như trời biển không gì có thể sánh bằng. Ít ai nghĩ mình được sinh ra từ đâu, ai nuôi mình khôn lớn và ngày nay sống cơm no áo ấm, công thành danh toại là nhờ ai?

     Thế là chàng trai thuê một chiếc xe ngựa, tự mình cầm dây cương chở thẳng cha mẹ vào rừng sâu, đến chỗ đã khuất người, chàng trai trao dây cương cho cha rồi nói:  Dạ thưa cha mẹ: đoạn đường này nỗi tiếng có rất nhiều bọn cướp, con phải xuống đi trước để dò la tin tức và canh chừng chúng.

     Đi được một đổi chàng giả làm bọn cướp đánh đập cha mẹ  tàn nhẫn, nhưng ông bà không nghĩ đến thân mình bị đánh đập mà trong lòng luôn nhớ nghĩ đến con, nên ráng sức la lớn. Con ơi! Hãy mau chạy lẹ đi con, kẻo bị bọn cướp đánh chết không về nuôi vợ nuôi con được, cha mẹ đã già rồi nếu có chết cũng không sao.

        Thật là, đứt từng khúc ruột!

        Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng,

        Con nuôi cha mẹ con tính tháng tính ngày.

    Người con cứ ngỡ rằng đây là một giấc chiêm bao, trong lúc sinh ly tử biệt cần kề với cái chết mà cha mẹ già lúc nào cũng thương tưởng nhớ đến mình.

            Công cha như núi thái sơn

            Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

            Một lòng thờ mẹ kính cha

            Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

    Những âm vang ấy tự nhiên hiện lên rõ ràng trước mắt anh như đang thức tỉnh cơn điên cuồng ngu si dại dột của mình.

     Trong kinh Phật dạy:

        Cha mẹ già khi trăm tuổi,

        Vẫn còn thương con tám mươi.

    Thật ra trên cõi đời này không có gì cao quý và thiêng liêng bằng tình cha mẹ. Dù suốt cuộc đời hai vai ta cõng cha cõng mẹ lo cho ăn uống cung phụng đầy đủ các món ngon vật lạ suốt một đời cũng chưa trả hết công ơn cha mẹ. Vậy mà, chàng trai đó vì nghe theo tiếng gọi của tình yêu, bị tiếng sét ái tình làm mê muội mà nỡ đành lòng tàn nhẫn đến thế ư!

    Tình cha mẹ thương con như biển rộng sông dài mênh mông vô cùng tận. Trong cơn mê sảng, điên rồ cuồng dại, chàng trai chợt tỉnh ra, rụng rời tay chân, nói chẳng nên lời, bất giác nghẹn ngào, quỳ xuống ôm chầm lấy cha mẹ mà van xin tha tội chết, ăn năn sám hối lỗi lầm mong cha mẹ thứ tha.

     Xong rồi, anh ta đưa hai ông bà già về nhà trở lại hết lòng thờ kính hiếu dưỡng và đuổi cô vợ đi, Vợ anh hồn vía lên mây quỳ lạy trối chết mong anh ta tha thứ cho một lần để ở lại nuôi con và nuôi dưỡng mẹ cha. Với lòng hỷ xả, anh cũng xin mẹ cha tha thứ cho cô con dâu.

    Do lòng tham con người không bến bờ nhất định nên lúc nào cũng ích kỷ nhỏ nhoi, nghĩ rằng cha mẹ già là gánh nặng của gia đình, thêm phần tốn kém và chẳng lợi ích gì. Ít ai nghĩ mình từ đâu ra, nếu không có cha mẹ nuôi nấng bảo bọc làm sao ta sống đến giờ này, để được nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con ngoan. Thế mới biết:

        Vì tình chăn gối đậm đà

        Quên đi ân nghĩa mẹ cha thuở nào.

        Chỉ vì không biết tu trì

        Nên đành bất hiếu cũng vì ái ân.

     Cái tình đầu ấp tay gối giữa vợ chồng với nhau, lúc nào cũng đầm ấm mặn nồng hơn, nên đôi lúc nó lướt qua tình cha mẹ. Trên đời này không có gì yêu thương tha thiết bằng ái tình, người ta đành lòng bỏ hết tất cả để đi theo tiếng gọi của tình yêu và sẵn sàng làm những điều tàn ác dã man nhất để bảo vệ tình yêu, mà một con người bình thường không dám làm, như trường hợp trong câu chuyện trên.

      Đành đoạn, nhẫn tâm, mất hết tính người chỉ vì con tim véo gọi. Đau lòng, chua xót, ngậm ngùi, đắng cay, may mà chàng trai ấy còn có chút lương tâm ăn năn sám hối kịp thời. Không thì,

                Tội này chồng chất cao thành núi,

                Biết đến chừng nào mới trả xong.

                Công cha nghĩa mẹ sinh thành

                Trời cao biển rộng cũng không sánh bằng.

     Mặc dù đã ăn năn hối hận, tận tâm hiếu dưỡng nhưng cha mẹ già sức yếu lại bị đánh đập nữa, nên một thời gian ngắn hai ông bà cũng hóa ra người thiên cổ. Chàng trai đó vì ác nghiệp quá nặng nề, nên nhiều kiếp về sau bị đọa đày chịu khổ trong địa ngục.

    Và cũng từ nhân duyên này, chàng trai đó mới phát nguyện lớn đời đời, kiếp kiếp lúc nào cũng hiếu dưỡng với cha mẹ. Nên thời Phật tại thế, chàng trai đó chính là Mục Kiền Liên xuất gia tu theo Phật được chứng quả A La Hán thần thông đệ nhất bên Tăng. Vì thương mẹ hiện tiền không biết quý kính Tam bảo hay làm những điều xấu ác hại đến nhiều người, xan tham bỏn sẻn, keo kiệt ích kỷ, chết rồi không biết thác sanh về đâu. Ngài dùng thần thông đi tìm mẹ, mới biết mẹ mình bị đọa lạc trong loài ngạ quỷ tức quỷ đói chịu khổ sở vô cùng.

    Thương mẹ đói khát khổ sở, thân thể tiều tuỵ. Ngài trở về trần gian xin được bát cơm liền tức tốc dùng thần lực để dâng bát cơm đó cho mẹ ăn. Bà ta đói khát đã nhiều ngày nên khi thấy cơm, một tay bà che bát cơm lại vì sợ các quỷ đói khác thấy xin, một tay bốc ăn, nhưng nghiệt ngã thay cơm hóa thành lửa ăn không được, làm bà ta đau khổ vô cùng.

    Mục Kiền Liên thấy mẹ mình như vậy nên động lòng thương xót, Ngài vận dụng thần thông để giúp cho mẹ được no đủ, nhưng vô hiệu quả, vì nghiệp ác của bà quá nặng bèn trở về nhờ Phật ra tay cứu độ.

     Phật dạy mẹ ông khi còn sống tham lam bỏn sẻn, tâm địa ác độc, nên sau khi chết bị đọa làm quỷ đói, một mình ông không đủ sức để cứu mẹ mà phải nhờ công đức tu hành thanh tịnh của chư Thánh Tăng trong mùa an cư kiết hạ, may thay mới cứu được mẹ ông.

     Tôn giả Mục Kiền Liên mới thực hiện theo lời Phật dạy làm lễ cúng dường Trai Tăng, nhờ vậy mẹ Ngài thoát được kiếp quỷ đói mà sanh về cảnh giới an lành. Tuy nhiên do ác nghiệp quá khứ còn xót lại, nên khoảng cuối đời Ngài bị một số người ác tâm dùng gậy đánh chết.

    Một số thầy Tỳ kheo mới thắc mắc hỏi Phật, tại sao Ngài không dùng thần thông để thoát chết.

    Phật dạy thần thông không chuyển được nghiệp lực.

    Bình thường tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần thông biến hóa vô song, qua lại trong các cõi trời người như trở bàn tay, đến khi nghiệp đến Ngài không dùng thần thông được nữa, nên đành phải chịu chết để trả nghiệp quá khứ còn xót lại.

     Như chúng ta đã biết, thần thông chỉ là diệu dụng khi mình còn sống chúng ta có thể thi thố thần thông dời núi lấp biển hoặc cầu mưa gió nhưng đến khi nghiệp báo đến, thần thông vẫn bất lực trước quả xấu ác của chính mình. Nếu thần thông mạnh hơn nghiệp báo thì thế giới này không ai sống được, người ta sẽ đua nhau luyện thần thông để làm bá chủ thiên hạ.

     Như vậy có thần thông để làm gì? Bởi do quá khứ nhiều đời ngài Mục Kiền Liên từng làm nghề đánh bắt cá tàn hại các loài vật nhiều quá và có một kiếp Ngài bất hiếu tàn nhẫn với cha mẹ vì vợ con. Cho nên dù kiếp hiện tại Ngài có tu hành chứng quả, nhưng vẫn phải trả ác nghiệp khi xưa còn xót lại.

   Qua câu chuyện trên là một bài học nhân quả công bằng không thiên vị một ai, siêng năng tinh tấn tu hành thì chứng quả giải thoát, gieo tạo ác nghiệp thì đến hồi đủ duyên phải trả quả xấu. Nhưng, người tu trả quả khác với người đời là khi quả xấu đến vẫn an nhiên tự tại, không oán hận thù hằn người hại, ngược lại luôn mở rộng lòng từ, bi, hỷ, xã, sẳn sàng bao dung tha thứ và độ lượng, cho nên nhân quả xấu kể từ đây chấm dứt không còn tác động chi phối nữa.

    Còn chúng ta khi gặp quả xấu đến thì oán giận thù hằn, đổ thừa tại bị thì là mà không biết tất cả đều do mình tạo lấy có khi làm cho nhân quả xấu trở thành lớn mạnh thêm. Song, người Phật tử thời bây giờ vẫn thích thần thông hơn, nghe ở đâu có linh ứng liền tranh nhau đi đến đảnh lễ cầu xin đủ thứ. Vì thói quen của con người thích hiếu kỳ và ưa điều mầu nhiệm huyền bí và thích cầu khẩn van xin hơn là tu tập. Do đó, dễ bị người gạt gẫm dụ dỗ cuối cùng rơi vào mê tín dị đoan không làm chủ được bản thân mà làm những điều tà vạy. 

     Trở lại câu chuyện thật của tôn giả Mục Kiền Liên là một bài học quý giá cho cuộc đời nhằm giúp cho chúng ta có thêm một nhận thức sáng suốt về công cha nghĩa mẹ. Đàng rằng ai lớn lên cũng phải có vợ có chồng để xây dựng hạnh phúc gia đình và đóng góp cho xã hội. Nhưng nếu không có cha mẹ thì làm sao ta có thân này và theo quy luật nhân quả tương duyên trong đạo làm người việc thờ kính hiếu dưỡng cha mẹ là một lẽ đương nhiên vì nó nói lên tinh thần biết ơn và đền ơn.

   Ta biết hiếu thảo với cha mẹ, biết đền ơn đáp nghĩa thì sau này con cháu ta cũng sẽ biết hiếu thảo và nó sẽ trở thành một truyền thống tốt đẹp là đạo lý uống nước nhớ nguồn, để nhắc nhỡ cho mọi người chúng ta ai cũng phải biết như thế là đạo lý chân chính trong cuộc đời làm người.

BIỂN ÁI NGHÌN TRÙNG  

     Như chúng ta đã biết, luyến ái sắc dục trong tình yêu nam nữ là căn bệnh thâm căn cố đế của tất cả mọi người. Đây là thói quen si mê nặng nề nhất của chúng tôi. Trong hiện đời, nó đã làm cho tôi điên đảo, vọng động, rơi vào vòng tội lỗi, và xém chút nữa là đã mất mạng vì nghiệp tình ái này. Mãi đến khi chúng tôi được đầy đủ phúc duyên xuất gia tu học tại Thiền Viện Thường Chiếu, tôi vẫn bị thói quen ham muốn luyến ái nam nữ cuốn hút nặng nề, xuýt chút nữa là tôi bị rớt đày bởi vì “tình xưa nghĩa cũ”.

    Trong kinh đức Phật thuờng hay thí dụ hình ảnh chiếc lưới để nói lên sự mất tự do của một người khi bị vướng vào vòng ái dục. Tôi khi xưa thường hay tự hào rằng mình có số đào hoa nên đi đâu cũng kết duyên tình ái tới đó. Vướng vào nghiệp này giờ ngồi gẫm lại mới thấy tội lỗi vô cùng, muốn chiếm tình cảm của người khác phái chúng ta phải nói dối để ga lăng và tâng bốc nàng ta hầu được lòng phái đẹp. Còn khi đã có vợ rồi muốn ăn vụng thì phải nói dối, lừa đảo bằng mọi cách, nào là sống không có hạnh phúc hoặc bị cha mẹ ép buộc để tán tỉnh lấy lòng người ta thật là tội lỗi. 

    Những người cư sĩ tại gia lớn lên phải đi đến hôn nhân, để duy trì giống nòi nhân loại, có vợ, có chồng, xây dựng hạnh phúc gia đình để phát triển tình yêu thương, là chuyện đương nhiên trong đời sống xã hội, nhưng ta phải thương yêu như thế nào để không bị lưới ân ái trói buộc, mà gây khổ đau và làm tan nát hạnh phúc gia đình. Qua đó, chúng ta thấy, ái dục là cội gốc của luân hồi sinh tử, hễ còn ái là còn khổ đau, dứt ái, lìa được ái, thì ta một đời thong dong, tự tại, giải thoát, không bị sự trói buộc của nó.

     Đứng về phương diện hành trì để chuyển hóa luyến ái nam nữ thì người xuất gia dễ dàng thực tập hơn người tại gia, vì người xuất gia sống trong môi trường rất thuận lợi về mọi mặt. Những vị xuất gia tại Thiền Viện Thường Chiếu phải tự lao động công ích, tự làm, tự nấu ăn, tự dọn dẹp, sắp đặt mọi thứ công việc mà không bị lệ thuộc các Phật tử bên ngoài như các chùa khác. Quý thầy không được xem truyền hình, không được đọc sách báo, tiểu thuyết tình cảm, nên không thấy những hình ảnh khêu gợi ái dục trong phim ảnh hay sách báo. Do đó, tâm luyến ái dục vọng cũng bị hạn chế, và lần theo thời gian quý thầy dùng trí tuệ để chuyển hóa ái dục.

     Tuy có điều kiện thuận lợi trong việc tu học như vậy, nhưng lâu lâu quý thầy cũng bị ra đời lấy vợ, có ai hỏi thì đổ thừa tại nghiệp tôi nặng quá. Trên thực tế, một bên chịu, một bên không, thì làm sao có chuyện kết nối yêu thương; tại vì hai bên đều đồng ý thích thú nên mới cùng nắm tay nhau xây dựng tổ ấm gia đình. Ta thấy, luyến ái nam nữ là căn bệnh trầm kha từ vô thủy kiếp đến nay. Thế gian này thiếu nó thì không thể tồn tại, đời sống con người sẽ khô khan, cằn cỗi, chẳng ai thèm xây dựng đóng góp, mở mang phát triển làm gì nữa. Chính tình yêu thương đó thúc đẩy con người sống, làm việc, phục vụ, để xây dựng hạnh phúc gia đình và đóng góp xã hội.

    Trong cuộc sống này dù không có tình yêu lứa đôi chính thức nhưng nhu cầu tình dục vẫn hoạt động bình thường nên mới có tình trạng mua bán dâm. Người xuất gia là đi ngược lại dòng đời và một khi đi tới tình dục thì sẽ làm tan vỡ tất cả lý tưởng giác ngộ, giải thoát của mình. Vì vậy, chúng ta không nên coi thường, đừng tưởng là không sao.

    Nếu đó là tình thầy trò thì không sao, nhưng nếu nó có hơi hướm của luyến ái, yêu thương, thì mình phải biết rõ nó sẽ dẫn tới hẹn hò rồi yêu thương. Chuyện này đã có xảy ra trong đại chúng. Một vị thầy với một Phật tử nữ, hai người đã thường xuyên tiếp xúc qua lại bằng điện thoại và sự gặp gỡ hàng tuần, hàng tháng, rồi cuối cùng rũ nhau ra đi, xây dựng tổ ấm yêu thương.

    Vì vậy, mình phải thấy cho rõ, đây có phải là tình thầy trò hay không? Nếu nó có màu sắc của ái dục thì ta phải cẩn thận, nếu để nó làm ta nhớ thương mỗi khi không được tiếp xúc, nói chuyện, thì đây là nguyên nhân sẽ đưa ta tới sự gần gũi. Mới đầu, ta chỉ gặp gỡ, trao đổi, thưa hỏi đạo lý tu tập với tình thầy trò, nhưng với thời gian, nước ái sẽ thấm dần vào trong trí não ta, cho nên ta phải nhớ mình đã xuất gia, mình đã có chí nguyện đi theo sự nghiệp của Đức Thế Tôn, nên mình phải biết khôn ngoan, sáng suốt xa lìa.

    Muốn vượt qua sự luyến ái đó, chư huynh đệ phải biết quan tâm, khuyên nhủ, nhắc nhở động viên lẫn nhau. Khi có ai nhắc nhở mình, thì mình phải chắp tay lại xin cám ơn người đó. Nếu làm được như thế, ta mới có năng lực làm chủ bản thân, vượt qua sự quyến rũ hấp dẫn của ái dục.

   Trong khi đó, người tại gia sống ở ngoài đời, phải tiếp xúc chung đụng nhiều thứ, lại không có những giới luật ngăn cản và bảo hộ, nên những hạt giống của ái dục rất dễ thấm vào lòng mọi người. Do đó, Phật chế ra giới cho người tại gia là không được tà dâm, để giúp người Phật tử sống hạnh phúc lứa đôi một vợ một chồng bằng sự chung thuỷ một lòng. Đứng về phương diện đó mà nói thì tu tại gia và tu chợ, khó hơn tu chùa rất nhiều, vì người tại gia phải tiếp xúc, gặp gỡ thuờng xuyên để giữ mối quan hệ gia đình, bè bạn và giao dịch làm ăn trong xã hội.

     Con đường xuất gia vốn là con đường dễ dàng nhất để quý thầy cô có cơ hội chuyển hóa nghiệp tình ái. Tuy nói vậy, con đường chuyển hóa ái dục không đơn giản tí nào. Nếu không biết cách, nếu không quyết tâm dứt khoát xa lìa cội gốc luân hồi, sinh tử, thì sẽ trở thành con ma lơ lớ làm tổn hại nhiều người hơn, và làm mất đi giống nòi nhân loại, vì cái bệnh nam ái nam, nữ ái nữ mà trong thời đại này rất nhiều người như vậy.

    Đây là căn bệnh của thế kỷ làm đau đầu thế giới loài người, nếu ở trong chùa mà như thế thì phá hủy đời người tu. Đây là loại ma của thời hiện đại, đang có chiều hướng gia tăng trong rất nhiều chùa. Quý thầy cô nếu không chịu nổi đời sống độc thân để tu hành, chuyển hóa ái dục, thì cứ ra đời lấy vợ, lấy chồng bình thường. Còn nếu ở trong chùa mà lơ lớ như thế thì tội lỗi biết chừng nào.

     Đối với người tại gia, cuộc sống cần có tình yêu thương nam nữ để xây dựng hạnh phúc gia đình, nên Phật vì lòng từ bi, thương xót chúng ta mà chế ra giới không tà dâm, sống chung thủy một vợ một chồng để đảm bảo hạnh phúc lứa đôi. Ái không phải chỉ là tình cảm giữa nam và nữ, mà nó còn có ý nghĩa khác là lòng nhân ái, là tình yêu thương nhân loại, là tình người trong cuộc sống.

   Chữ ái không có nghĩa là vướng mắc mà có nghĩa là thương yêu. Chữ dục đứng riêng có nghĩa là khao khát, ham muốn, hay nói gọn lại là thèm khát. Khi hai chữ đứng riêng thì ta rất dễ hiểu, một bên là tình thương (ái) và một bên là ham muốn (dục). Nhưng khi gộp hai chữ lại thành chữ ái dục thì ta hơi khó hiểu, vì trong ái có dục, trong dục có ái.

     Đức Phật khuyên dạy người xuất gia hãy nên diệt trừ nguồn gốc ái dục. Vì ái là yêu thích, thương yêu, mến tiếc, luyến ái, tham ái, bám víu. Dục là sự ham muốn hưởng thụ dục lạc. Ái dục là lòng ham muốn, luyến ái, bám víu, tham cầu hưởng thụ mọi sự sung sướng thường tình đối với tất cả chúng sinh trên thế gian này.

    Trong kinh Pháp Cú Phật chỉ cho chúng ta thấy rõ ái dục là nguồn gốc của mọi sự đau khổ trong đời, là sức mạnh hấp dẫn, thúc đẩy con người tìm sự thỏa mãn với nhau bởi lòng ham muốn khoái lạc. Ái dục là cạm bẫy nguy hiểm nhất, vì khi được toại nguyện nó sẽ đem lại cảm giác ngọt ngào êm dịu và khi được rồi mà thiếu nó thì ta chịu không nỗi.

     Cho nên một trong hai người vợ hoặc chồng chết hay chia tay thì liền kiếm người khác để thế vô chỗ trống đó. Chính vì vậy, lòng ham muốn ái dục của con người cứ thế mà tăng trưởng theo thời gian. Cho nên, không cần ai chỉ dạy mà ta vẫn bị ái dục lôi cuốn, hấp dẫn đến ngớ ngẩn cả người.

    Trong nhà thiền có câu chuyện “con cọp dễ thương” chắc quý vị ai cũng biết. Thuở xưa, tại một đồi núi hoang vắng, có một thiền sư sống ẩn dật, tu hành nơi đây. Trong lúc hóa duyên, sư tình cờ gặp đứa bé nằm lăn lóc bên bìa rừng, động lòng thương xót nên sư đã đem đứa bé về nuôi dưỡng. Chú bé lớn lên nhờ sự chăm sóc của thiền sư giàu lòng nhân ái, sống giữa rừng núi hoang vu không một bóng người qua lại.

    Thắm thoắt 18 năm đã trôi qua, chú bé giờ đây đã lớn khôn nhưng chưa bao giờ giáp mặt với con người. Bạn bè chú là những con thú rừng hiền lành như hươu, nai, khỉ, vượn, và các loài chim chóc khác. Tâm hồn chú trắng tinh như tờ giấy trắng với thiên nhiên đồi núi chập chùng, vui vẻ hài hòa với các loài thú yêu thương bé bỏng trong rừng sâu.

   Thiền sư thường nói với chú tiểu, ở trên đời này loài cọp là dữ hơn hết, chớ nên gần gũi nó, ai gần là bị nó nhai cho tan xương, nát thịt. Chú tiểu cũng hay hỏi chị em nhà hươu, nhà nai trong rừng loài nào là dữ nhất, cả hai đều đáp cọp là loài dữ nhất, nó chuyên ăn thịt các loài thú khác để bảo tồn mạng sống. Các loài thú trong rừng chỉ cần nghe hơi và tiếng kêu của nó thôi, là sợ đến té đái cả bầy, anh người hãy nên tránh xa nó ra.

    Một hôm, được tin người bạn đồng tu trong cơn bệnh nặng khó bề qua khỏi, Thiền sư liền quảy túi xuống núi cùng với đệ tử của mình. Chú tiểu chưa bao giờ tiếp xúc với thế giới bên ngoài, hôm nay được dịp, chú ngắm nhìn đủ thứ màu sắc với nhiều hình ảnh đẹp trong thế giới con người. Trên đường trở về, hai thầy trò tình cờ gặp một thiếu nữ tuổi vừa trăng tròn, dáng người thon thả, xinh đẹp làm sao. Chú tiểu ngạc nhiên nhìn dáng vẻ xinh đẹp của người khác phái một cách say sưa, đắm đuối, đôi mắt chú cứ nhìn chăm chăm vào người con gái ấy như lạc vào mê hồn trận của cõi thần tiên.

    Thiền sư thấy thế bảo chú đệ tử đi nhanh về núi, kẻo trời tối.
Chú tiểu ngớ ngẫn cả người ra mà hỏi, dạ thưa thầy, đây là con gì vậy? Thiền sư nhanh miệng nói, “cọp cái đó con, đi lẹ lên con ơi, kẻo cọp xơi bây giờ!”.

    Hai thầy trò cũng đã kịp về đến núi, trước khi trời vừa tối. Kể từ đêm hôm đó, chú tiểu bắt đầu thao thức, trăn trở mãi không sao ngủ được, chẳng thiết gì đến việc ăn uống. Chú cứ nhớ mãi về hình ảnh con cọp cái đó sao mà dễ thương, xinh đẹp làm sao đâu, nhất là khi cười để lộ hai hàm răng trắng đều như hạt bắp. Bị sự dằn dặc bởi hình ảnh sống động và sức hấp dẫn lạ kỳ đó, chú tiểu không còn chịu nổi nữa, vì trong lòng cứ nhớ mãi hình ảnh và bóng dáng đó, làm cho con tim chú rung lên bần bật như muốn vỡ nát ra, chú đành đến thú thật với thiền sư:

    Sư phụ ơi, sao con cứ nhớ đến con cọp cái đó quá chừng, thà con tìm gặp nó, để cho nó ăn thịt con cho rồi. Con thà chịu mất mạng, mà trong lòng cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng. Từ nhỏ đến giờ, con chưa từng trải qua cảm giác nhớ nhung, thương yêu, trìu mến, lạ lùng đến thế kia. Dạ thưa sư phụ, con phải làm sao đây?
Chú tiểu kia đã bị tiếng sét ái tình làm rung động cả trái tim ngây thơ, hiền lành, chất phát của thuở nào.

    Nói đến đây chúng tôi mới nhớ lại câu chuyện ông thầy tu và cô gái lái đò. Chuyện đó như sao, một hôm ông thầy có việc Phật sự nên phải đi qua đò, khi đến bờ sông bên kia cô gái đều lấy mọi người chỉ có một đồng riêng thầy cô ta lấy hai đồng. Ông thầy mới thắc mắc hỏi: Cô gái trả lời tại thầy nhìn tôi chăm chăm nên phải trả thêm một đồng, ông thầy hết đường hỏi.

    Lúc trở về ông thầy biết rồi nên không thèm nhìn cô ta nữa, mà cứ cúi gầm mặt xuống để coi phen này cô ta có cớ gì để lấy tiền thêm mình hay không? Nhưng lần này, cô ta lại đòi ông thầy phải trả bốn đồng gấp đôi số tiền trước. Ông thầy mới ngạc nhiên và thắc mắc, lần này tôi đâu có nhìn cô sao phải trả bốn đồng cơ chứ? Tuy rằng thầy không trực tiếp nhìn tôi, nhưng trong tâm thầy nhớ mãi bóng hình của tôi nên phải trả bốn đồng. Ông thầy hết đường thắc mắc. Qua câu chuyện trên chúng ta đã thấy sỡ dĩ con người ta có mặt trong cõi đời này là do sắc dục và chết bởi sắc dục, tái sinh trong lục đạo luân hồi này cũng chỉ vì luyến ái sắc dục mà ra.

    Thiền Viện Thường Chiếu bây giờ có trên 200 vị thầy tu trẻ như thế, ít ra cũng có vài thầy xin nạp mạng mình cho cọp nhai nát xương chơi. Chú tiểu đó có duyên ở núi tu hành, chưa từng biết  người nữ là gì, và cũng chưa từng một lần trò chuyện với người khác phái, ấy thế mà, khi có duyên sự xuống núi cùng thầy, chỉ một lần thoáng thấy bóng dáng thôi, đã ngớ ngẫn người ra như kẻ mất hồn.

    Chính vì vậy, ai dính mắc vào luyến ái, đam mê, tham muốn dục vọng, không biết chừng nào mới thoát ra được. Một khi đã nói đến sự luyến ái, tức là sự thèm khát và ham muốn về sắc dục. Ai trong chúng ta có thể vượt qua được, thật là trăm khó, ngàn khó.

     Đã là con người, thật khó có thể thoát ly vĩnh viễn được ái dục, ngoài trừ các vị đại Bồ tát và chư Phật. Chính vì vậy, Phật đã đưa nhiều hình ảnh thí dụ sống động về sự tác hại của ái dục, mà khuyên người xuất gia phải cố gắng tu học sau cho tốt, dùng trí tuệ để chuyển hoá ái dục mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

     Vậy, Phật có yêu thương không? Phật yêu thương còn nhiều hơn chúng ta nữa nhưng không luyến ái và dính mắc, bởi trái tim của Phật vốn có tình yêu thương chân thật và bình đẳng với tất cả mọi người.

     Cho nên, ta phải thấy rằng, hễ là con ngườì thì ai cũng có hạt giống của ái dục nếu không thì ta đâu có bị luân hồi trong cõi này. Trong tình yêu thương lúc nào cũng có gốc rễ của tình dục, vì sự thèm khát và ham muốn, nên ta luyến ái, yêu thương, chấp trước, bám víu vào đó, để thỏa mãn được khát vọng của mình. Ta tu tập là để chuyển hóa sự luyến ái, ham muốn cho riêng mình thành tình yêu thương chân thật vì tất cả mọi người.     

     Khi ta đã chọn con đường xuất gia là con đường đi ngược lại dòng đời để chuyển hóa sự yêu thương, ích kỷ của riêng mình, thì ta phải khép kín lại cánh cửa ái ân, để mở rộng tình yêu thương rộng lớn cho tất cả mọi người. Như vậy không có nghĩa ta cho rằng ái ân là một tội ác.

     Ái ân là tình yêu thương của nhân loại, là lẽ sống của mọi người, nhưng vì ta đã chọn cho mình một con đường để mở rộng tấm lòng nhân ái bằng tình yêu thương chân thật. Như chúng ta đã thấy, con đường thương yêu của Phật không hề bị hệ lụy, khổ đau, ràng buộc của tình ái chi phối. Con đường này không làm cho ta phiền muộn khổ đau, nhờ ta biết đem lại bình yên, hạnh phúc cho mình và người khác.

    Sau khi ta khôn ngoan, sáng suốt, lựa chọn con đường của Phật rồi, ta phải đóng kín lại cánh cửa ái ân, mở rộng cánh cửa bình đẳng yêu thương nhân loại. Chúng tôi cũng từng là một chúng sinh si mê vô độ, say đắm luyến ái sắc dục nam nữ như cục nam châm khi gặp sắt. Tuy có duyên xuất gia nhưng vẫn chưa đủ sức làm chủ bản thân mỗi khi gặp người khác phái. Tôi vẫn biết mình còn yếu kém, dở tệ như thế, nên với tâm hổ thẹn trình bày ra đây, để chúng ta cùng cảm thông và hiểu cho nhau, cùng ráng cố gắng tu tập nhiều hơn, để vượt qua luyến ái buộc ràng mà thành tựu đạo giác ngộ, giải thoát.

     Khi có một cặp vợ chồng làm lễ cưới ta thường chúc họ được  trăm năm hạnh phúc, như vậy hạnh phúc chính là mục đích của hôn nhân. Cho nên, vấn đề hạnh phúc trong hôn nhân là nhu cầu thiết yếu của một đời người. Ai cũng biết gia đình là nền tảng của xã hội và đời sống vợ chồng là nền tảng của hạnh phúc gia đình. 

     Đời sống hôn nhân sẽ rất phức tạp nếu không có những điểm chung, nhất là những điểm không chung ấy thuộc về phẩm chất tâm lý thì nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc gia đình rất cao. Sự đồng tâm cùng chung một chí hướng hay một lý tưởng nào đó sẽ đưa đến hiệp lực, nhất là cả hai cùng là Phật tử, nhờ vậy ta dễ dàng vượt qua những khó khăn trong cuộc đời vì đã tin sâu nhân quả. 

    Đời sống vợ chồng nếu không đặt mình vào những bổn phận và trách nhiệm rõ ràng thì sẽ rất khó giữ gìn được tình yêu lâu bền. Bởi vì sao? Sống với nhau là để yêu thương lo lắng san sẻ cho nhau và còn có trách nhiệm nuôi dạy con cái nữa và đóng góp lợi ích cho xã hội, chứ không phải lấy nhau chỉ để hưởng thụ dục lạc ích kỷ cho riêng mình.

    Trong tình yêu lứa đôi yếu tố chung thủy được coi là quan trọng nhất trong cuộc sống hôn nhân, có thể nói đây nền tảng luân lý đạo đức chuẩn mực chỉ có trong những người đã ý thức trách nhiệm và tin sâu nhân quả. Có một lời nói mà chúng tôi cảm thấy thương tâm đó là : Phía sau sự thành công của người chồng, có bóng dáng của người vợ. Phía sau những bi kịch của một người đàn ông có bóng dáng của nhiều người đàn bà. Cuộc sống trong thời văn minh hiện đại, dễ làm cho con người đổ vỡ hạnh phúc nhiều hơn bởi áp lực của cuộc sống với bộn bề công việc và sự tự do quá mức trong tiếp xúc quan hệ nam nữ. 

     Xây dựng cuộc sống hạnh phúc gia đình bằng những lời Phật dạy có nghĩa là chồng và vợ phải có ý thức bình đẳng tôn trọng nhau, chung thuỷ một vợ một chồng, biết cảm thông và tha thứ cho nhau, và có trách nhiệm nuôi dạy con cái đàng hoàng. Có những cặp vợ chồng bề ngoài rất vui vẻ, hạnh phúc nhưng bên trong họ đang khốn khổ vô cùng, họ chỉ sống giả tạo với nhau để che mắt thiên hạ. Hạnh phúc gia đình thật sự chỉ có mặt khi nó đến từ lòng vị tha, và có sự cảm thông sâu sắc giữa hai người.

    Đức Phật dạy, một người vợ lý tưởng hay một người chồng đạo đức là hai người biết thể hiện tình yêu thương của mình trong bốn vai trò đối với nhau:

    Một là coi chồng hoặc vợ như là người mẹ người cha của mình thương yêu con cái không giới hạn, trải lòng bao dung, hy sinh tất cả cho con. Người chồng hoặc vợ không phải khi nào cũng làm tốt hết mọi công việc trong nhà và ở ngoài xã hội, có những lúc quá nhiều khó khăn, trắc trở người chồng hay vợ cũng suy sụp tinh thần lẫn thể xác. Lúc ấy, vai trò của hai người phải thay đổi qua vai trò của người mẹ hoặc người cha, hy sinh quên mình, lo lắng an ủi vổ về và động viên cho nhau.

    Hai là coi chồng hoặc vợ như là người em gái, người em gái luôn kính trọng anh chị, biết lắng nghe và phục vụ với thái độ ôn hòa, coi trọng những ý muốn của anh chị mình. Trong hai người lúc nầy đóng vai một người cộng sự biết chia sẻ và hợp tác, làm cho người chồng hoặc vợ cảm thấy an tâm và tin tưởng.

    Ba là coi chồng hoặc vợ như là bạn thân, nghĩa là vui vẻ hân hoan đối với chồng hoặc vợ, thể hiện sự duyên dáng dịu hiền và một chút tình tứ làm cho người chồng hoặc vợ cảm thấy hứng thú và yêu đời.

    Bốn là coi chồng hoặc vợ như là người đầy tớ, trong hai người gặp lúc mất bình tĩnh trong cơn nóng giận có thể chửi mắng nặng lời, có thể thượng chân hạ cẳng, người chồng hoặc vợ phải biết nhường nhịn lẫn nhau ví như mình là một đầy tớ bị chủ nói hoặc rày la vẫn vui vẻ không buồn giận. Nếu được như vậy sẽ giúp cho hai người vượt qua những khó khăn bất trắc trong cuộc đời và sẽ có được một cuộc sống lứa đôi hạnh phúc thật sự. 

    Tuổi trẻ trong thời đại ngày hôm nay đang đối mặt với sự khủng hoảng về đời sống hôn nhân, họ chưa đủ kinh nghiệm để bước vào đời sống vợ chồng. Trước những tấm gương đổ vỡ hôn nhân làm cho giới trẻ thiết tha tìm lối thoát; ngày càng nhiều thanh niên quan tâm học hỏi về nghệ thuật sống, về kỷ năng giữ gìn hạnh phúc lứa đôi cũng như xin được làm lễ hằng thuận trong chùa là những bằng chứng thiết thực.         

    Đạo Phật vốn là đạo giác ngộ, giải thoát muốn vậy phải đoạn trừ tâm luyến ái và lòng ham muốn hưởng thụ vật chất cũng như tình dục là mục đích của sự tu tập chuyển hoá, nhằm giúp cho người xuất gia ái dục.

    Ngày xưa, đạo Phật không thiết lập chương trình lễ thành hôn cho nam nữ Phật tử. Ngày hôm nay chúng tôi tin rằng, những cặp vợ chồng được làm lễ hằng thuận trước sự chứng minh của Tam bảo với những lời cầu nguyện và chỉ dạy của chư Tăng, sẽ là nguồn động viên giúp đỡ chúng ta tin sâu nhân quả và cùng nhau sống tốt hơn nhờ gìn giữ năm điều đạo đức trong đó có giới sống chung thuỷ một vợ chồng.

    Như chúng ta đã biết, lòng ái dục nặng chúng ta mới sinh ra cõi Ta bà, nên niệm Phật phải nhất tâm mới về Cực lạc được. Tu thiền phải buông xả từng vọng niệm mới làm chủ được bản thân. Sắc dục không phải là làn sóng dữ, nhưng dễ dàng nhận chìm biết bao người tài hoa. Chúng ta phải nên biết, khi vô thường đến, tất cả vợ chồng, con cái mỗi người đều theo nghiệp đã tạo mà đi, dù cho có lưu luyến khóc than, tiếc nuối nhưng nghiệp ai tạo ra đều nhận lấy.

     Tham ái là tình cảm thương yêu giữa nam và nữ, cho nên thế gian lớn lên thường khiến người ta tiến đến hôn nhân và tình dục. Đây là bản năng mạnh thứ hai so với bản năng sinh tồn của con người.

    Sống trên đời này, chúng ta bị nghiệp quá khứ cũng như bản năng nơi chính mình thúc đẩy tìm đến tình yêu đôi lứa với người khác phái để rồi từ tình yêu đôi lứa đó, chúng ta tiến đến hôn nhân và tính dục. Tuy nhiên, đối với người xuất gia thì không được phép nhiễm vào tham luyến ái ân.

     Như chúng ta đã biết, tình yêu là điều không thể định nghĩa được. Con người chỉ có thể nhận thấy biểu hiện của nó và dựa vào đó, để biết rằng mình đã yêu. Đối với những lớp tình cảm còn nằm sâu trong vô thức, chúng ta lại càng không thể dùng tâm để điễn tả được mà chỉ có cảm nhận qua thực tế.

    Tình yêu muôn đời vẫn là cái gì đó vô cùng bí ẩn mà con người không thể cắt nghĩa được, không thể hiểu hết được. Tình cảm con người là như vậy, phức tạp và bí ẩn. Tuy nhiên, một điều lạ là tuy không định nghĩa được, chỉ cảm nhận thôi nhưng nó lại mạnh hơn ý thức. Phải chăng, cái gì càng hướng về chiều sâu, càng có sức mạnh hơn những cái xuất hiện trên bề mặt? Trong thực tế, có những mối tình ngang trái, thậm chí vô lý mà người ta vẫn lao vào, bất chấp danh dự, bất chấp sự nghiệp, bất chấp tương lai, bất chấp sự ngăn cản của mọi người để đến với nhau.

     Chẳng hạn như một cô gái xinh đẹp, con nhà giàu có lại đi thương một anh chàng, không nghề nghiệp, không đạo đức chỉ biết chơi bời lêu lỏng. Mặc dù gia đình ngăn cấm, tình yêu của họ vẫn ngày càng cháy bỏng. Đó là tình yêu rất kỳ khôi, bình thường không thể chấp nhận được nhưng họ vẫn cứ yêu, không lý lẽ nào có thể giải thích được.

    Tại sao như vậy? Vì tình yêu luôn luôn mạnh hơn lý trí. Người ta vẫn thường nói: “Con tim có những lý lẽ mà lý trí không hiểu nổi”. Đúng như vậy. Sức mạnh của tình yêu vượt lên những lý lẽ thường tình. Chính vì tình cảm có sức mạnh đáng sợ như vậy nên người xuất gia của chúng ta phải biết đề phòng. Bây giờ, sống trong môi trường với đại chúng, với giới luật, được quý thầy lớn và huynh đệ bảo bọc, chúng ta cảm thấy bình yên.

     Nhưng đây chỉ là sự bình yên tạm thời. Một ngày nào đó, khi ra làm Phật sự, chúng ta sẽ đối diện với không ít những thử thách, có khi có cả sự thử thách của tình ái. Nếu không đề phòng, không cẩn thận, nó sẵn sàng đẩy chúng ta vượt ra ngoài khuôn phép. Do đó, chúng ta phải có sự hiểu biết về tình yêu, hiểu được sức mạnh cũng như nguyên nhân của nó để có phương pháp hoá giải và vượt qua.

     Sở dĩ tình cảm có sức mạnh ghê gớm như vậy vì nó thuộc bản năng tức là thói quen muôn đời của con người. Bản năng sinh tồn là sức mạnh tiềm tàng, sâu kín trong con người, buộc con người phải duy trì sự sống. Bản năng mạnh thứ hai là bản năng hưởng thụ, là khuynh hướng thôi thúc con người đi tìm hạnh phúc. Và trong những vấn đề mà con người gọi là hạnh phúc ấy, có tình yêu. Tình yêu cũng là một loại hạnh phúc vì trong cuộc sống, con người luôn khao khát được thương yêu trìu mến.

     Đôi khi vì thất vọng trong tình yêu mà con người phải tự tử, phải hủy hoại sự sống của mình. Thực tế đã cho thấy điều này. Không ít những chàng trai, cô gái vì thất vọng trong tình yêu đã uống thuốc độc hoặc nhảy xuống sông tự tử. Tình yêu có sức mạnh thật khủng khiếp. Tình yêu mạnh hơn cả cái chết. Với không ít người, tình yêu chính là sự sống. Vì vậy, khi đã thất bại trong tình yêu, họ sẽ vô cùng đau khổ và sự sống với họ lúc ấy không còn ý nghĩa gì nữa.

    Ở người nam có nội tiết tố nam là Testosterone. Người nữ có nội tiết tố nữ là Estrogen. Khi đến tuổi trưởng thành, những tuyến nội tiết của người nam và người nữ sẽ tiết ra hai nội tiết tố này tạo thành trạng thái tâm lý đặc biệt để người nam đi tìm người nữ và người nữ chờ đợi người nam. Đó là lý do vì sao khi lớn lên, con người lại phải yêu thương nhau. Vậy, làm sao con người biết được mình đang yêu hay đang rung động vì tình yêu? Tình yêu là loại tình cảm đặc biệt mà chúng ta chỉ có thể gọi tên chứ không định nghĩa được.

    Nhưng dựa vào bốn biểu hiện của tình cảm, con người có thể biết được mình đang yêu và đã yêu. Thứ nhất, khi gặp người ấy, chúng ta cảm thấy lòng hân hoan, vui sướng. Thứ hai, khi xa người ấy, chúng ta thấy cảm thấy buồn nhớ và luôn nghĩ về họ. Thứ ba,chúng ta luôn muốn giúp đỡ người ấy tất cả về mọi phương diện. Thứ tư, do muốn chiếm hữu cho riêng mình nên ta  ích kỷ, chúng ta chỉ muốn người đó thuộc về ta. Nếu thấy trong tim xuất hiện bốn hiện tượng này, chúng ta biết rằng mình đã và đang yêu, hãy nên cố gắng mà tìm cách vượt qua.

    Trong tình yêu, ngoài nguyên nhân chính thuộc về sinh lý còn do nghiệp duyên từ quá khứ chiêu cảm nữa. Vì duyên nợ ân nghĩa quá khứ, nên khiến hai người gặp nhau kết đôi trong đời sống hôn nhân. Khi thương yêu ai, chúng ta phải hiểu rằng giữa mình và người ấy đã có mối quan hệ từ quá khứ. Chỉ với đời sống vợ chồng, con người mới lo lắng, chăm sóc, giúp đỡ nhau suốt năm này qua năm khác để yêu thương nhau và trả nợ nhau. Nếu nợ quá khứ không nhiều, ơn nghĩa quá khứ không nhiều nhưng có duyên, con người vẫn có tình thương yêu trong một thời gian ngắn. Trong tình yêu, nếu để ý chúng ta sẽ thấy, ai mắc nợ nhiều sẽ thương người kia nhiều hơn.

    Với con người, thương yêu và được yêu thương là một niềm hạnh phúc lớn lao. Tất nhiên, hạnh phúc chỉ đến trong buổi ban đầu, về lâu dài tình yêu sẽ làm cho con người đau khổ. Vì sao? Vì thương mà không được gần nhau cho nên khổ, vì ghét mà gặp nhau hoài cho nên khổ, vì mong muốn mà không được như ý cho nên khổ. Do đó, luyến ái dục vọng trong tình yêu giống như người khát nước mà uống nước muối, càng uống càng khát. Trong các thứ luyến ái dính mắc vào ngũ dục như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon ngủ kỷ mặc ấm, không bằng luyến ái nam nữ nó như là cục nam châm gặp sắt liền hút.

     Con người ta sống bởi sắc dục, chết bởi sắc dục và chết đi sống lại trong ba cõi sáu đường cũng vì sắc dục. Người xuất gia phải xa lìa ái dục để thành tựu đạo giác ngộ, giải thoát cho nên phải đi ngược lại dòng đời. Còn người cư sĩ chuyển hoá bằng cách sống chung thuỷ một vợ một chồng và biết tiết chế trong đời sống tình dục, nhờ vậy tâm luyến ái cũng có phần suy giảm.

QUÁN THÂN BẤT TỊNH ĐỂ TRỪ TÂM THAM LUYẾN ÁI DỤC.

      Trong thế gian này ai cũng tham sống sợ chết. Sự tham sống của con người vô cùng mãnh liệt, vì nó được tiếp nối từ vô thỉ kiếp  cho đến nay. Vì tham sống cho nên chúng ta tìm đủ hết mọi cách để được sống. Vì tham sống cho nên con người ta bất chấp hết mọi thủ đoạn đê hèn, dã man và tàn nhẫn nhất để duy trì mạng sống cho chính mình.

    Tóm lại, tham sống sợ chết là không của riêng ai kể cả các loài vật khác. Con người, càng tham sống bao nhiêu lại càng sợ chết bấy nhiêu. Mà đã sợ thì không dám dùng từ chết, cho nên dùng từ mất, qua đời hoặc vãng sinh.

     "Bất tịnh" nghĩa là không sạch sẽ, trong lành. Quán bất tịnh tức là quán sát một cách tỷ mỉ, cùng tột thân con người để nhận thấy biết rõ ràng nó là không trong sạch.

    Đối với tất cả mọi người thì "quán thây ma" như thế chưa phải là phương thuốc mầu nhiệm, để chúng ta nhàm chán cái thể xác của mình và của người khác. Muốn nhàm chán, ghê tởm cái thể xác nhơ nhớp này thì ta phải thấy tận mắt cái "bất tịnh" của nó, từ khi nó bắt đầu thành hình cho đến khi nó bị hủy hoại.

     Quán chủng tử bất tịnh. Chủng tử là hạt giống, là yếu tố hay nguyên nhân để phát sinh ra thân này.

    Hạt giống của thân này gồm có hai phần: Phần tinh thần và phần vật chất. Phần tinh thần hay còn gọi là thần thức. Nó là chủ nhân ông của bao điều hoạ phúc trong hiện tại và mai sau. Thần thức nầy, hoà hiệp cùng tinh cha huyết mẹ để có một đời sống kế tiếp sau khi chết. Trong khi quán, hành giả phải vận dụng, tập trung ý lực mạnh mẽ để tưởng tượng một cách rõ ràng, như thấy trước tất cả hạt giống bất tịnh, để mà nhàm chán thân người, dẹp lòng tham đắm luyến ái xác thân này.

    2. Quán bào thai bất tịnh trong bụng mẹ. Cái bào thai, không nói, ai cũng biết là một cái bọc chứa đầy máu nhớt hôi tanh, dơ bẩn. Cái bào thai nằm lẫn lộn và lớn dần trong cái bọc bé nhỏ dơ bẩn ấy, giống như trong lổ cầu xí vậy. Nhưng trong chỗ ấy, dù sao cũng còn có khoảng trống để xê dịch, còn có cửa thông hơi để ánh sáng và không khí lọt vào.

     Chứ trong bào thai thì cái thai phải nằm co rút lại, đẫm mình trong những chất nước, máu và nhớt vô cùng tanh hôi, và không có được một chút không khí hay ánh sáng mặt trời lọt vào. Cái thai phải sống trong hoàn cảnh ấy không phải chỉ một ngày, một tuần hay một tháng mà phải đến chín tháng mười ngày mới thoát ra được.

     Vậy quán cái bào thai bất tịnh có nghĩa là vận dụng toàn lực ý niệm để nhận chân một cách rõ ràng như thấy trước mắt cái dơ bẩn, cái bất tịnh của bào thai là chỗ ở nhơ nhớp, hầu dẹp lòng rạo rực ham muốn tham đắm sắc thân người.

    3. Quán hình tướng bất tịnh. Sau khi đứa bé chào đời, có đầy đủ giác quan để tiếp xúc với ngoại cảnh, có đủ bộ phận cần thiết để điều hòa cuộc sống thể xác của mình. Những giác quan bên ngoài và bộ phận bên trong ấy, thường bài tiết ra những chất dơ bẩn, hôi hám; do đó, ta biết rằng cái thân này không trong sạch. Ngoài ra còn chín chỗ tiết ra các chất không trong sạch như đường đại thảy phân ra hôi thúi, đường tiểu khai hôi, còn miệng nếu không súc rữa sẽ hôi dơ, hai lỗ tai tiết ra chất gọi là cức rái, hai lỗ mũi tiết ra chất gọi là cức mũi và hai con mắt tiết ra ghèn. Chín lỗ này chẳng khác gì chín "cái cống", lớn có, nhỏ có để chứa những thứ nhơ nhớp. Khi thân xác này còn mạnh khỏe, ta có thể làm vệ sinh sạch sẽ, nhưng đến lúc bệnh hoạn già nua ta không còn làm chủ được nữa, thì những lỗ ấy tự động xuất ra, các thứ dơ bẩn ấy.

     Do đó, mỗi hành giả muốn thành công và nhàm chán cái thân này, chúng ta phải thường xuyên quán tưởng để thấy sự nhơ bẫn của nó mà ta sinh nhàm chán, nhờ vậy mà ta không tham đắm luyến ái thân này.

     4. Quán tự thể bất tịnh. Vậy quán tự thể bất tịnh là quán sát cái thể chất của thân người, để nhận thấy rõ sự bất tịnh của nó như thế nào.

      Về chất cứng như xương, tóc, lông, móng tay. Chất lỏng như máu, nước miếng, nước mắt. Chất sệt như mỡ, óc, tủy. Trong các chất ấy, dù cứng, hay lỏng cũng chẳng có thứ nào là trong sạch cả. Về chất cứng, như tóc của chúng ta nằm trên đầu, ai cũng quý nó hết. Nhưng nếu ta không tắm rữa gội đầu thường xuyên hoặc chải chuốt chăm sóc hằng ngày thì lâu ngày nó trở nên hôi dơ bẩn thỉu, không một ai dám đứng gần. Tóc là thứ ở nơi cao quý của con người mà còn bất tịnh như vậy, thì những thứ khác như ruột, gan, phèo phổi lại còn bất tịnh biết chừng nào?

      Về chất lỏng, thì nước miếng là sạch nhất, vì nó được ở trong miệng là nơi hằng ngày được lau chùi súc rửa nhiều nhất. Thế mà lúc ra khỏi miệng, dù là của kẻ khác hay của chính mình, rủi bị dính vào mặt, vào áo, thì ta liền có thái độ và những cử chỉ tỏ rõ sự nhờm gớm ngay.

      Về chất sệt, thì não là phần quan trọng và được ở trong đầu óc là nơi cao quý nhất. Nhưng thử tưởng tượng, khi chúng ta đi xe hơi chẳng hạn, rủi bị tai nạn, người ngồi bên cạnh ta bị bể đầu, não trắng như đậu hủ tung tóe vào mặt mày chúng ta, thì chắc chắn những người thiếu bình tĩnh sẽ chết giấc vì ghê tởm.

       5. Quán bất tịnh sau khi chết. Đây là thời kỳ chung cuộc của mấy mươi năm sinh tồn của thân này. Phật dạy: Thân người do bốn chất đất nước gió lửa giả hợp lại mà thành, đến khi chết, xác con người phải trả về cho tứ đại. Trước hết, là hơi thở về với phong đại. Kế là hơi ấm trở về với hỏa đại. Tiếp theo là chất lỏng trong người trả về với thủy đại, và cuối cùng chất cứng như thịt xương cũng trở về địa đại. Nói một cách tổng quát từ kẻ sang đến người hèn, từ kẻ giàu đến người nghèo, từ kẻ già đến người trẻ, từ kẻ đẹp đến người xấu, ai ai đến giai đoạn chung cuộc này, cũng chỉ với một xác chết sình thúi.

     Nói tóm lại, mỗi hành giả phải quán sát qua năm giai đoạn bất tịnh: Nhờ vậy chúng ta thấy rõ bản chất của thân này là bất tịnh nhơ nhớp mà không tham đắm dính mắc thân này là ta và của ta, do đó thành tựu được thân vô ngã. Ta quán thân này bất tịnh để mỗi hành giả không bị tham đắm dính mắc vào xác thân hư giả này không thật thể, nhờ vậy ta phá được ngã chấp. Chấp thân này là mình thiệt.

   Sau khi thành tựu pháp quán bất tịnh hành giã cảm thấy nhờm gớm thân này, nên nảy sinh ra tư tưởng chán chường không muốn giữ thân này dâu dài nữa. Một số thầy Tỳ kheo sau khi  quán pháp bất tịnh thành công nên mướn người giết.

   Phật giáo hoá ở cõi trời về, thấy vắng một số thầy Tỳ kheo nên mới hỏi Ngài A Nan vì sao lại thế. A Nan kể lại sự việc như thế, Phật bảo ta dạy pháp quán bất tịnh để quý thầy không luyến ái dính mắc vào sắc thân mà dễ dàng buông xả. Sau khi thành tựu pháp bất tịnh, quý thầy phải quán tịnh trở lại để nhận ra thể tánh thanh tịnh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế mà thành tựu Phật đạo.

     Ái có nghĩa là luyến mến yêu thương thuộc về tình cảm, dục là ham muốn thuộc về thể xác. Ái bao gồm đủ loại tình cảm: yêu, thương, nhớ, mến, ưa, ghét, giận, hờn, buồn, lo, v.v.

     Dục gồm có ngũ dục hay lục dục. Ngũ dục là năm thứ ham muốn của mọi người: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ... Lục dục là sự ham muốn của sáu căn đối với sáu trần: mắt thích nhìn sắc đẹp, tai thích nghe âm thanh dễ chịu, mũi thích ngửi mùi thơm, lưỡi thích nếm món ngon vật lạ, thân thích xúc chạm da thịt êm ái, ý thích nghĩ tới cái gì thỏa mãn sự thèm khát và mong muốn của mình.

     Phần đông đa số người phụ nữ đều thích tình cảm luyến ái, đàn ông thì mong muốn ham thích một cách mạnh mẽ.  Một bên cần tình ái, một bên cần tình dục, hai bên hợp lại nhau thì say mê chìm đắm trong hoan lạc. 

Nhiều người tu theo đạo Phật, muốn giác ngộ giải thoát, để chấm dứt phiền muộn khổ đau nhưng lại không chịu từ bỏ tình cảm luyến ái dục vọng. Đây là điều hết sức mâu thuẫn, một mặt thì ta tạo thêm tình cảm luyến ái, một mặt thì ta lại muốn chấm dứt khổ đau.

Tại sao chúng ta cần phải từ bỏ ái dục?  Vì ái dục là nguyên nhân dẫn chúng ta luân hồi mãi trong vòng sinh tử khổ đau. 

Người Phật tử tại gia muốn từ bỏ ái dục thì phải làm sao? Chỉ cần giữ giới chung thuỷ một vợ một chồng với nhau, và biết tiết chế trong sinh hoạt tình dục là tốt lắm rồi. Từ đó, cả hai vợ chồng cùng học đạo, hiểu đạo, và trở thành bạn đạo, khuyến khích nhau tu hành để được giải thoát sinh tử, khổ đau, giống như hai vợ chồng ngài Ma Ha Ca Diếp khi xưa, lấy nhau mà không ân ái cuối cùng hai người cùng phát tâm xuất gia tu hành và chứng quả A-la-hán.  

Ngoài ra, chúng ta có thể quán thêm về sự tai hại của sắc dục như liếm mật ngọt trên lưỡi dao bén, như khát uống nước muối, như chó gặm xương khô.

     Có người dùng dao nhúng vào lọ mật để lấy ra phết vào bánh mì, phết xong trên con dao còn dính lại chút mật, xong rồi thè lưỡi ra liếm chỗ mật còn xót lại đó. Mật tuy ngon ngọt nhưng vừa liếm xong là đứt lưỡi. Vị ngọt hưởng chưa tới một giây mà bị đau đứt lưỡi.

     Như người đi trên biển, khát nước bèn múc nước biển mà uống,  càng uống càng khát lại càng khô khốc cổ họng có khi chết khát vì mặn. Có người vứt cho con chó một khúc xương khô, không còn dính chút thịt nào, nhưng con chó không biết, cố gặm tới gặm lui, rách răng chảy máu, rồi nó tưởng máu đó từ miếng xương khô mà ra nên ráng gặm nữa, càng gặm càng đói, càng thèm, càng chảy máu răng. 

     Sắc dục cũng lại như thế, không bao giờ làm cho ta thoả mãn, càng ân ái thì lòng dục càng tăng trưởng, càng thích thú, càng thèm khát tìm kiếm và cuối cùng không làm chủ được bản thân mà dính vào tội tà dâm, hoặc hiếp dâm. Hậu quả hiện đời là gia đình tan nát, hoặc bị tù tội, giam cầm khổ sở. Và trong  đời sau có thể bị lạc đọa vào các loài súc sinh như chim sẻ, chim bồ câu chẳng hạn để thoả mãn thú tính.

    BỐN LOẠI THỨC ĂN

    Trong kinh Tử Nhục Phật dùng hình ảnh hai vợ chồng kia ăn thịt con vì bắc đắc dĩ. Hai vợ chồng này cùng đứa con trai duy nhất vì có việc cần nên phải đi qua sa mạc. Họ sắp xếp đem theo số lương thực để đủ dùng trong chuyến đi đó, nhưng không may cho họ, chưa ra khỏi sa mạc mà thức ăn uống đem theo đã hết.

   Hai vợ chồng mới ngồi lại bàn tính, nếu không có gì ăn thì cả ba người đành phải chịu chết trong sa mạc hoang dã này. Và không còn cách nào khác hơn, họ phải đành chấp nhận ăn thịt đứa con duy nhất cùng đi theo để sống và ra khỏi sa mạc. Nhưng họ vừa ăn thịt con, vừa khóc nức nở nghẹn ngào. Kể xong rồi, Phật mới hỏi các vị Tỳ kheo: Này các thầy, khi hai vợ chồng đó ăn thịt con họ có thấy thích thú hay là đau khổ?

    Các thầy cùng nhau thưa: Dạ, kính bạch đức thế Tôn làm sao mà thích thú được khi biết mình đang ăn thịt con. Phật dạy: Trong đời sống hằng ngày, chúng ta cần phải ăn uống để mà sống nhưng ta phải ăn uống như thế nào để không tạo ra sự khổ đau cho kẻ khác và của những loài sinh vật khác.  

Loại thức ăn thứ nhất trong nhà Phật gọi là đoàn thực, tức là những thức ăn thực phẩm được đưa vào bằng đường miệng của chúng ta. Chúng ta phải biết những thức ăn và thức uống khi đưa vào cơ thể, có tính cách hiền lành và bổ dưỡng giúp cho ta khoẻ mạnh. Ngược lại những thức ăn thức uống nào làm tổn giảm năng lực của ta và làm mất sự điều hòa trong cơ thể. Muốn vậy ta phải có học thức và hiểu biết chân chính, những gì cần ăn và không nên ăn ta phải biết làm chủ khẩu vị ăn uống của ta.

Trước khi ăn chúng ta nói: " tôi chỉ xin ăn những thức ăn có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh", và trước khi mua, khi nấu, khi ăn tôi cố gắng chuyển hoá những tư tưởng thèm khát trong tôi.

Ta không làm ruộng nhưng vẫn có cơm ăn, ta không sản xuất nhưng vẫn có nước uống. Chính vì vậy khi ăn chén cơm, uống miếng nước ta biết sự khó nhọc của con người và bao loài vật khác phải hy sinh vì ta. Cho nên ta phải có ý thức khi ăn khi uống làm sao cho thân tâm an ổn, nhẹ nhàng.

Ăn không có chánh niệm, ăn không có ý thức ta sẽ tạo ra nỗi khổ niềm đau cho muôn loài vật và tự ta làm khổ đau cho chính mình. Khi ta hút thuốc, khi ta uống rượu, ăn nhiều thịt động vật bằng cách chiên nướng xào, tức là ta đưa các thức béo vào, là ta đang huỷ diệt buồng gan của ta, ta đang ăn trái tim của ta, và tự mình ăn thịt chính mình. Ðạo Phật  Nam Tông và Bắc Tông đều tin rằng tất cả chúng sinh đều được thăng lên và lộn xuống đủ mọi hình dạng và lần lượt thay phiên làm cha làm mẹ của nhau. Vì vậy mỗi khi ăn thịt, chúng ta hãy ý thức rằng có thể ta đang ăn thịt cha mẹ hay con cái của ta trong nhiều đời. Do đó người Phật tử chân chính phải tập ăn chay và tập không sát sinh hại vật là thể hiện lòng từ bi với muôn loài.

 Hiện nay tại Việt Nam người tu theo hệ phái Bắc tông tức hệ phái phát triển đi theo tinh thần Bồ tát đạo, trên cầu thành Phật dưới cứu độ chúng sinh, người xuất gia tất cả đều ăn chay. Riêng người Phật tử tại gia có người ăn chay trọn vẹn, có người ăn chay kỳ từ hai ngày cho đến mười ngày trong một tháng. Tinh thần Phật giáo Bắc tông vì tin sâu có luân hồi tái sinh vô số kiếp nên dứt khoát ăn chay, để tránh nghiệp cha mẹ con cái gia đình người thân ăn nuốt lẫn nhau theo chu kỳ tái sinh.

 Nếu ta đang là cha, ta đang là mẹ thì khi lúc ta đang ăn tức là ta đang ăn thịt con của mình. Và nếu cha mẹ trong khi ăn uống mà tàn hại thân thể của chính mình thì chính cha mẹ đang giết chết dần mòn con của mình. Thành ra, ta phải ăn như thế nào để đừng tạo ra oán giận thù hằn, tạo ra những khổ đau cho các loài và đừng làm mình khổ đau, đó là ta ăn có ý thức.

 Loại thức ăn thứ hai là xúc thực. Chúng ta có sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Chúng tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Ta phải thấy rằng việc tiếp xúc đó có đem chất độc vào người hay không. Ví dụ như khi ta xem truyền hình, mắt ta tiếp xúc với hình sắc. Phải thực tập chánh kiến xem chương trình truyền hình kia có đưa vào trong tâm ta những độc tố như sợ hãi, căm thù và bạo động hay không. Có những phim mang lại cho lòng ta sự hiểu biết, lòng từ bi, chí quyết tâm muốn giúp người, quyết tâm không làm những điều lầm lỗi. Ta biết ta có thể xem phim đó. Ấy là ta thực tập chánh kiến. Người lớn cũng như trẻ em, trong khi xem phim, phải biết thực tập chánh kiến. Phải biết rằng có những chương trình truyền hình chứa đựng rất nhiều độc tố như bạo động, căm thù và dục vọng. Ngay cả những phim quảng cáo cũng khơi động thèm khát, dục vọng hay sợ hãi của người ta. Khi xem một tờ báo không có chánh niệm, chúng ta có thể tiếp nhận rất nhiều độc tố. Ðọc xong ta có thể mệt nhoài vì những điều ta đọc có thể khiến chúng ta chán nản, lo lắng và ghê sợ. Chính những câu chuyện hàng ngày cũng có thể mang nhiều độc tố. Ðó là xúc thực.

Chánh kiến phát sinh ra chánh niệm và chánh niệm cũng làm phát sinh chánh kiến. Tôi biết rằng nhìn, nghe và tiếp xúc với những gì thì thân tâm tôi sẽ khỏe khoắn, nhẹ nhàng và an lạc và tôi quyết định mỗi ngày tiếp xúc với những chất liệu đó. Còn nhữõng thứ làm tôi mệt, tôi buồn, tôi lo, tôi giận thì tôi sẽ tránh không tiếp xúc. Ðó là chánh niệm về xúc thực, có được nhờ chánh kiến về xúc thực. Bụt dạy rằng con người rất dễ bị thương tích, trên cơ thể cũng như trên tâm hồn. Bụt đã dùng hình ảnh một con bò bị lột da dẫn xuống sông. Dưới sông có hàng vạn loài sinh vật li ti bu lại hút máu và rỉa thịt con bò. Và khi ta đưa con bò tới đứng gần một bức tường hay một cây cổ thụ, cũng có những sinh vật li ti sống trên bức tường và trong cây cổ thụ bay ra, bám vào con bò để hút máu. Nếu chúng ta không giữ gìn thân và tâm bằng chánh kiến và chánh niệm thì các độc tố trong cuộc đời cũng bám lại và tàn phá thân tâm ta. Năm giới mà chúng ta tiếp nhận và hành trì là bộ da bao bọc thân thể và tâm hồn ra. Nếu không hành trì năm giới là chúng ta không thực tập chánh kiến. Và trong mỗi chúng ta vốn đã có hạt giống của chánh niệm. Thực tập chánh niệm cũng như tạo ra những kháng thể để chống lại sự thâm nhập của các độc tố kia.

Loại thức ăn thứ ba là tư niệm thực. Ðó là những nỗi ước ao ta muốn thực hiện cho đời ta. Mong muốn làm giám đốc một hãng buôn lớn, hay mong muốn đậu bằng tiến sĩ, những mong muốn như thế thâm nhập vào người ta giống như một thức ăn. Mong muốn là một loại thực phẩm gọi là tư niệm thực. Ước muốn mạnh sẽ giúp ta năng lượng để thực hiện hoài bão. Nhưng có những loại tư niệm thực làm cho ta khổ đau suốt đời. Như danh, lợi, tài và sắc. Muốn được mạnh khỏe và tươi vui, muốn được giúp đở cho gia đình và xã hội, muốn bảo vệ thiên nhiên, tu tập để chuyển hóa, để thành một bậc giác ngộ độ thoát cho đời.vv.. thì đó là loại tư niệm thực có thể đưa tới an lạc, hạnh phúc.

Về tư niệm thực, Bụt kể chuyện một người bị hai lực sĩ khiêng người kia ném xuống hầm lửa đang bốc cháy. Bụt nói rằng khi ta bị những tư niệm thực bất thiện chiếm cứ, bị danh, lợi, tài và sắc lôi cuốn thì cũng như ta bị những anh chàng lực sĩ kéo đi liệng xuống hầm lửa. So đó người tu học phải có chánh kiến, phải nhận diện được tư niệm thực trong ta là loại nào.

Loại thức ăn thứ tư là thức thực. Chúng ta là sự biểu hiện của thức, gồm có y báo và chánh báo. Chánh báo là con người gồm năm uẩn của ta và y báo thuộc hoàn cảnh chung quanh ta. Vì hành động từ nhiều kiếp xưa nên bây giờ ta có chánh báo này, với y báo này. Chánh báo và y báo đều là sự biểu hiện của tâm thức. Khi làm công việc nhận thức, tâm cũng giống như cơ thể đón nhận các món ăn. Nếu trong quá khứ tâm thức ta đã tiếp nhận những thức ăn độc hại, thì nay tâm thức ta biểu hiện ra y báo và chánh báo không lành. Những gì ta thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc, suy tư, tưởng tượng,tất cả những thứ ấy đều như muôn sông chảy về biển tâm thức. Và những vô minh, hận thù và buồn khổ của ta đều trở về biển cả của tâm thức ta. Vì vậy ta phải biết mỗi ngày chúng ta nhận vào tâm thức của ta những món ăn nào. Chúng ta cho nó ăn từ, bi, hỷ, xả hay là chúng ta cho nó ăn trạo cử, hôn trầm, giãi đãi, phóng dật?

Về thức thực, Bụt đã dùng hình ảnh một người tử tù và ông vua. Buổi sáng vua ra lệnh lấy 300 lưởi dao cắm vào thân thể của một tử tội. Tới buổi chiều vua hỏi: " Người tù đó bây giờ sao?" - "Tâu bệ hạ, nó còn sống." - "Vậy thì đem hó ra, lấy 300 lưỡi dao đâm qua người nó một lần nữa." Và buổi tối, vua hỏi: " Kẻ đó bây giờ ra sao?" - " Còn sống." - " Hãy lấy 300 mũi dao đâm qua thân thể nó một lần nữa!" Bụt dùng ví dụ đó để nói chúng ta cũng đang hành hạ tâm thức của ta y như thế. Mỗi ngày chúng ta đâm 300 mũi dao của độc tố vào trong tâm thức ta. Những mũi dao của tham lam, giận dữ, ganh tỵ, hờn giận, thù oán, vô minh.

    Một ngày nọ có chàng trai trẻ vừa buồn vừa khóc, tìm đến Ðức Phật để xin một lời chỉ dạy. Ðức Phật hỏi, "Này chàng trai trẻ có điều gì quá bức bách mà đã làm con khóc?"

   "Thưa Ngài, cha con vừa mới chết chiều ngày hôm qua."

     Cha con đã chết rồi, nếu có thương tiếc buồn khóc chẳng thể làm ông ấy sống lại được.

     Vâng, kính thưa ngài, con rất hiểu điều đó, buồn khóc chẳng thể làm cho cha con sống trở lại được. Nhưng con đến đây cầu xin ngài một điều duy nhất, xin ngài hoan hỷ cầu nguyện cho cha con được sinh về thiên giới.

     Dạ kính thưa ngài, con nghe nói ngài là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Chánh Giác, là đấng toàn năng, chắc chắn ngài có thể làm được điều ấy cho cha con.

    Theo truyền thống từ ngàn xưa cho đến nay các vị Bà La Môn thường cúng tế, các vị ấy phát giấy xá tội, đã cử hành những nghi thức cúng lễ cầu siêu thật long trọng giúp cho người quá cố mau được siêu thăng về thiên giới hưởng nhiều phúc lạc vô biên. Thưa ngài, ngài là đấng toàn năng, ngài có đầy đủ quyền lực! Nếu ngài đứng ra làm chủ tế lễ và nghi thức cầu siêu cho cha con, cha con chắc chắn sẽ nhận được giấy nhập cảnh dài hạn nơi thiên quốc và sẽ được đăng ký hộ khẩu thường trú ở đó luôn. Thưa ngài, xin ngài vì lòng từ bi thương xót mà cứu độ cho cha con!

     Sau khi chàng trai trẻ cầu khẩn, van xin mong được những điều ấy với hy vọng Phật sẽ giúp được. Ðức Phật cảm thông và thương xót cho chàng trai hơn vì nỗi mất cha, nên đã dùng một phương tiện thiện xão khác để giúp cho chàng ta hiểu được nguyên lý sống chết của kiếp người.

   Phật dạy như sau: " Này chàng trai trẻ hãy đi mua hai cái chậu đất nung về đây ta sẽ giúp cho ngươi được toại nguyện như ý muốn." Chàng trai trẻ rất lấy làm sung sướng và hạnh phúc làm sao đâu, vì anh ta nghĩ rằng Ðức Phật sẽ giúp cho cha mình được sinh mau về thiên giới nên đã tức tốc đi chợ mua hai cái chậu bằng đất nung.

      Phật bảo, này chàng trai hãy đổ vào chậu thứ nhất đầy những đá cuội, chậu thứ hai đổ đầy bơ vào. Chàng trai trẻ vui vẻ làm y như lời Phật dạy.

    Sau đó Phật dạy bịt kín miệng cả hai chậu lại, xong rồi đem bỏ xuống một hồ nước gần đó. Chàng trai trẻ làm xong, hai chậu chìm xuống dưới đáy hồ. Lúc bấy giờ Phật nói, này chàng trai trẻ đem cái gậy ra đây, chọc bể cả hai chậu. Chàng trai trẻ rất lấy làm sung sướng, vì nghĩ rằng đức Phật sẽ giúp cho cha mình mau được siêu thoát về thiên giới hưởng mọi điều hạnh phúc.

   Chàng trai trẻ đã dùng cây gậy làm bể hai chậu. Lập tức, chậu đựng bơ bị vỡ, bơ nổi lênh láng trên mặt hồ nước. Chậu kia đựng những hòn đá cuội vẫn nằm yên dưới đáy hồ.

    Rồi Ðức Phật nói, "Này chàng trai trẻ, ngay bây giờ con hãy mời các thầy cúng tế và nói với họ hãy tụng kinh và cầu nguyện cho những viên đá cuội nổi lên và thật sự nổi lên! Hỡi bơ ơi, hãy chìm xuống, mau chìm xuống!"

    Dạ thưa ngài, ngài định nói đùa với con đó sao! Làm gì có chuyện những viên đá cuội nặng hơn nước, dĩ nhiên là chúng phải chìm xuống đáy. Chúng chẳng thể bao giờ nổi lên được. Ðây là một nguyên lý tự nhiên từ trước đến nay! Và thưa ngài, còn bơ thì bản chất của nó nhẹ hơn nước, đương nhiên là chúng sẽ nổi lên mặt nước, chẳng bao giờ có thể chìm xuống được. Ðây là định luật tự nhiên có từ ngàn xưa cho đến bây giờ."

     Đợi cho chàng trai trẻ nói xong, Phật mới khen nhà ngươi biết nhiều về nguyên lý tự nhiên, nhưng nhà ngươi lại không hiểu rõ về định luật tự nhiên này.

    Nếu trong suốt cuộc đời của cha nhà ngươi mà ông ấy đã từng làm quá nhiều điều ác độc, nó nặng như những viên đá cuội, thì cha nhà ngươi sẽ bị đọa lạc vào chỗ khốn cùng, không một ai trên cõi đời này có thể giúp cho cha nhà ngươi siêu thoát? Và nếu trước kia khi cha nhà ngươi lúc còn sống luôn nhân từ đạo đức hay giúp người cứu vật bằng trái tim yêu thương và hiểu biết thì việc làm của cha ngươi cũng nhẹ như bơ, ông ấy sẽ được sinh v , không ai có thể cầu cho ông ta bị xuống địa ngục được?"

     Nếu ai cũng tin sâu nhân quả hết thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc, chúng ta khỏi phải mất thời gian cầu cạnh van xin, cho uổng công vô ích.

    Việc làm ác nó được ví như những viên đá cuội, giống như chúng ta đã sống trong cuộc đời này mà tạo những nghiệp xấu ác quá nhiều.

 Những điều nhẹ như bơ, được hiểu là trong cuộc đời đã tạo những nghiệp tốt lành.  Theo bài kinh dạy cho chúng ta thấy rằng: Nếu người làm tội thì phải chịu quả khổ, bằng làm lành thì được an vui trong đời này và đời vị lai. Ðúng theo câu Phật ngôn trong pháp cú kinh dạy: Người làm cho mình trong sạch thì tự mình trong sạch, người làm tội thì mình bị nhơ đục, người nầy không thể làm cho người khác trong sạch hay nhơ đục được. Vì vậy nên theo lời Đức Phật thì mình hãy tự tu và tự giải thoát lấy bản thân mình chớ không ai có thể cứu cho mình được.

Bình luận