Đạo Phật Ngày Nay

Góp phần tìm hiểu về Thiền sư Từ Đạo Hạnh

Từ lâu, trong lịch sử Phật giáo thế giới và lịch sử Phật giáo Việt Nam có những vị cao tăng thạc đức mà tên tuổi của họ được lưu truyền rộng rãi trong dân gian với hành trạng thật kỳ vĩ, với tên tuổi thật tỏa sáng, tiêu biểu như các vị: Khâu Đà La, Huyền Trang, Tuệ Năng, Vô Ngôn Thông, Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh v.v…

Đặt vấn đề

Sự nghiệp hoằng dương Phật pháp của các vị không những có nhiều công tích lớn trong giáo hội Phật giáo mà còn có ảnh hưởng rất sâu rộng trong đời sống văn hóa tinh thần của nhiều thế hệ Phật tử. Trong bài này, chúng tôi muốn tìm hiểu thiền sư Từ Đạo Hạnh với cách xem xét sự xuất hiện của ngài như là một hiện tượng độc đáo trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Sở dĩ chúng tôi xem xét Từ Đạo Hạnh như hiện tượng độc đáo trong lịch sử Phật giáo Việt Nam vì:

Một là, đã là người Việt Nam, dù có là Phật tử hay không, dù sự hiểu biết về Phật giáo có cao hay thấp, sâu sắc hay phổ thông, quan chức hay dân thường,… có lẽ ai ai cũng được đọc hoặc được nghe nói đến Từ Đạo Hạnh;

Hai là, có lẽ ít vị thiền sư nào mà có nhiều sách vở nói đến như ngài. Theo sự tìm hiểu chưa đầy đủ của chúng tôi, chỉ riêng ở Việt Nam, đã có những thư tịch sau đây đề cập đến hành trạng của ngài: Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư (Ngô Sĩ Liên), Việt sử tiêu án (Ngô Thì Sĩ), An Nam chí lược (Lê Trắc), Lĩnh Nam trích quái (Vũ Quỳnh và Kiều Phú), Thiền uyển tập anh, Kiến văn tiểu lục (Lê Quí Đôn) Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú), Đại Nam nhất thống chí (Quốc sử quán triều Nguyễn), Thiền uyển kế đăng lục (Hòa thượngPhúc Điền), Từ Đạo Hạnh đại thánh sự tích thực lục (Đạo nhân tam quán Tam thanh soạn), Bắc thành địa dư chí lục, An Nam chí nguyên (Cao Hùng Trưng),… và gần đây có một số sách tiếng Việt có đề cập ít nhiều đến ngài: Việt Nam Phật giáo sử lược (Nguyễn Lang, năm 1974), Lịch sử Phật giáo Việt Nam (Nguyễn Tài Thư chủ biên, năm 1991), Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh (Lê Mạnh Thát, năm 1999), Chùa Hà Nội (Lạc Việt, 2009), Thiền tăng truyện ký (Thích Thanh Ninh, Nguyễn Thế Vinh, Đinh Thế Hinh, 2010), Chùa Việt Nam tiêu biểu (Đỗ Hoài Tuyên, Nguyễn Đức Lữ, Nguyễn Quang Khải,… 2011).

Ba là, dường như vị cao tăng nào của nước ta cũng là biểu tượng của sự đồng qui tam giáo (Nho, Phật, Lão), nhưng sự đồng qui tam giáo ở Từ Đạo Hạnh có lẽ là rõ nhất.

Do khuôn khổ của một bài viết, tôi xin đi vào tìm hiểu hiện tượng Từ Đạo Hạnh ở góc độ ngài là biểu tượng của sự đồng qui tam giáo và sự tụ hội của một số tông phái của Phật giáo.

1. Từ Đạo Hạnh trước hết là một vị thiền sư

Các thư tịch cổ và một số sách mới xuất bản ở nước ta đều gọi ngài là Thiền sư. Đã được gọi là thiền sư, chắc chắn ngài phải tinh thông Phật pháp. Để đạt được yêu cầu đó, ngoài tư chất thông minh, ngài đã phải rất chăm chỉ học tập. Sách Thiền uyển tập anh (TYTA) chép:

“Ban đêm, ông miệt mài đọc sách (…). Một đêm, Từ Vinh (cha đẻ của Từ Đạo Hạnh- NQK) lén vào phòng thấy ngọn đèn đã tàn, sách vở chất đống bên cạnh, còn Từ Lộ (thế danh của Từ Đạo Hạnh- NQK) thì đang tựa án mà ngủ, tay vẫn cầm quyển sách, tàn đèn rơi đầy cả mặt bàn”[1].

Ngoài đức tính miệt mài học tập trong kinh sách, khi còn chưa xuất gia, Từ lộ còn học ở ngoài đời, học ở bạn bè. Sách TYTA cho chúng ta biết ông kết thân với nho sĩ Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và người kép hát Vi Ất. Mối quan hệ bằng hữu độc đáo này rất có thể là những điều kiện tốt để sau này Từ Lộ tiếp cận dễ dàng với Đạo giáo, và những lĩnh vực văn hóa khác.

Viết về hành trạng của Từ Đạo Hạnh, các thư tịch cổ không cho chúng ta biết vị thiền sư độc đáo này là đệ tử kế đăng của ai mà ngài trở thành tăng sĩ là do trúng tuyển kỳ thi khoa tăng quan do triều đình mở. Mặc dù sau này ngài có đến tham vấn thiền sư Sùng Phạm ở chùa Pháp Vân nhưng ngài không phải là đệ tử của Sùng Phạm[2]. Thiền sư Từ Đạo Hạnh cũng đến tham vấn Kiều Trí Huyền ở Thái Bình, nhưng cũng chỉ với mục đích mở rộng kiến văn của mình chứ không phải đến để cầu được trao truyền giới pháp. Sách TYTA có nói ngài có các đệ tử, nhưng ai là đệ tử kế đăng của ngài thì các thư tịch cổ đều không có ghi cụ thể như trường hợp các vị cao tăng khác.

Được gọi là thiền sư, nhưng Từ Đạo Hạnh phải đâu chỉ có kiến thức và cách hành trì theo qui củ của Thiền tông, mà tăng chúng và Phật tử biết đến ngài phần lớn lại là hình ảnh một vị pháp sư Mật tông (giống như Huyền Quang thời Trần).

Theo “Từ Đạo Hạnh đại thánh sự tích thực lục” thì kiến thức về một vài phép thiêng cùng phép rút đất chân truyền và phép chú đà la ni (của Mật tông) mà Từ Đạo Hạnh học được là do một bà lão người Thiên Trúc truyền cho. Bài thực hành đầu tiên về phép chú đà la ni mà Từ Đạo Hạnh thực hiện là làm cho Giác Hải và Minh Không (hai người bạn đồng hành cùng Đạo Hạnh sang Thiên Trúc tầm sư học đạo nhưng lại bỏ lại Đạo Hạnh ở ngang đường) bị đau tim không cử động được.

Ngoài Mật tông, hành trang kiến thức của một tăng sĩ ở Từ Đạo Hạnh còn có tín ngưỡng thờ cúng của Tịnh độ tông. Chứng cứ là theo “An Nam chí” trên núi Phật Tích có chùa Thiên Phúc, có am Biện Tài và am Cực Lạc. Việc xây am Cực Lạc bên cạnh chùa Thiên Phúc trên núi Phật Tích- nơi Từ Đạo Hạnh tu hành, chứng tỏ tín ngưỡng thờ tự theo tôn chỉ của Tịnh Độ tông ở đây là khá đậm nét. Thực ra, tín ngưỡng thờ tự theo tôn chỉ của Tịnh Độ tông ở các chùa ở miền Bắc là rất phổ biến, bởi vì tín đồ dễ thực hành cách hành trì, mục đích đi lễ chùa và cúng dàng lại rõ ràng và dễ hiểu, đơn giản, ai cũng có thể thực hiện được, vì Tịnh Độ tông cho rằng chỉ cần niệm Phật A Di Đà thường xuyên là có thể đến được Tây phương cực lạc. Không rõ ở thời điểm Từ Đạo Hạnh hành đạo mức độ phổ biến của Tịnh Độ tông như thế nào, nhưng rất có thể tư tưởng Tịnh Độ đã thấm sâu vào giới tín đồ.

2. Từ Đạo Hạnh có hiểu biết Nho giáo ở mức độ cần thiết

Sách TYTA chép rằng “Cha [Từ Lộ] là Từ Vinh làm quan đến chức Tăng quan Đô án”[3]. Từ lâu, ở nước ta không có chức danh này và không có chức vụ nào tương đương với chức danh đó. Nhưng có thể hiểu, đó là một chức vụ vừa làm nhiệm vụ của Nhà nước vừa làm nhiệm vụ của Giáo hội Phật giáo. Để có được chức vụ đó, Từ Vinh phải đi học và đi thi. Bản thân Từ Lộ cũng phải đi học và đi thi mới trở thành tăng quan. Chúng ta cũng biết, khoa thi tăng quan không phải do Giáo hội tổ chức mà do triều đình mở. Như vậy việc đào tạo tăng quan là công việc của Nhà nước. Một vấn đề cũng cần quan tâm là: văn tự để thí sinh thể hiện bài thi là loại văn tự gì? Thời Từ Vinh, Từ Lộ đi thi rất có thể là loại chữ Hán mà gần chục thế kỷ sau cha ông chúng ta vẫn dùng để học và thi, và chữ Hán cũng là loại văn tự chính mà Nhà nước dùng để truyền đạt các văn bản hành chính.

Như vậy, điều kiện cần thiết đầu tiên để Từ Lộ trở thành tăng quan là ngài phải học Nho. Có thể khi học Nho, Từ Lộ cũng là một người có trình độ nhất định. Chứng cứ là khi tham vấn Trí Huyền, ngài có bài kệ với ý tứ cao siêu:

Phiên âm:

Cửu hỗn phàm trần vị thức kim,

Bất tri hà xứ thị chân tâm.

Nguyện thùy chỉ đích khai phương tiện,

Liễu kiến như như đoạn khổ tâm.

Dịch:

Lẫn với bụi trần tự bấy lâu,

Chân tâm vàng ngọc biết tìm đâu.

Cúi xin rộng mở bày phương tiện,

Thấy được chân như sạch khổ sầu.

(Nguyễn Lang dịch[4])

Hoặc bài kệ khi tham vấn Sùng Phạm tại chùa Pháp Vân:

Phiên âm:

Tác hữu trần sa hữu

Vi không nhất thiết không

Hữu không như thủy nguyệt

Vật trước hữu không không.

Dịch:

Có thì có tự mảy may

Không thì cả vũ trụ này cũng không.

Có, không: bóng nguyệt, lòng sông,

Cả hai tuy vậy chẳng không chút nào

(Nguyễn Lang dịch[5])

Và:

Phiên âm:

Nhật nguyệt tại nham đầu

Nhân nhân tận thất châu.

Phú nhân hữu câu tử

Bộ hành bất kỵ câu.

Dịch:

Nhật nguyệt tại non đầu

Người người mất ngọc châu.

Kẻ giàu có ngựa tốt

Chẳng chịu dùng ngựa đâu.[6]

Cho đến giờ phút sắp hóa, con người Nho sĩ vẫn thấp thoáng trong con người tăng sĩ của Từ Đạo Hạnh. Điều đó được thể hiện trong bài kệ sau:

Phiên âm:

Thu lai bất báo nhạn lai qui

Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi.

Vị báo môn nhân hưu luyến trước

Cổ sư kỷ độ tác kim sư.

Dịch :

Thu về chẳng báo nhạn theo bay

Cười nhạt người đời uổng xót vay.

Thôi hỡi môn đồ đừng quyến luyến

Thầy xưa mấy lượt hóa thầy nay.

(Ngô Tất Tố dịch[7])

Mặc dù tư tưởng của tác giả thể hiện trong các bài kệ trên đây thấm đẫm tư tưởng Thiền, nhưng cách gieo vần, chọn chữ là chịu ảnh hưởng cách gieo vần, chọn chữ của Nho gia.

Có thể do học Nho, Từ Lộ đã kết bạn thân với nho sĩ họ Phí (Phí Sinh). Sách TYTA cũng nói căn khí của Từ Lộ là “có chí lớn”. “Có chí lớn” vốn là sự chuẩn bị hành trang vào đời truyền thống của nhà Nho.

Nhưng chân dung Nho sĩ ở Từ Đạo Hạnh không rõ lắm. Các thế hệ Phật tử qua các giai đoạn lịch sử nhận ra ngài không phải từ chân dung một Nho sĩ mà lại thấy sự hiện diện của ngài như cốt cách của một pháp sư hoặc là vị tăng sĩ có am hiểu các phép thuật của Đạo giáo.

3. Từ Đạo Hạnh là vị tăng sĩ có am hiểu các phép thuật của Đạo giáo

Ở trên, chúng tôi có cho rằng trong khi chuẩn bị hành trang kiến thức của một tăng sĩ, Từ Đạo Hạnh đã tìm cách trang bị cho mình những kiến thức cần thiết của cả Thiền, Tịnh và Mật, trong đó yếu tố Mật giáo trong ngài là rõ hơn cả.

Phương pháp hành trì truyền thống của các pháp sư Mật giáo là người ta phải giữ được sự bí mật của thân thể (tức thân mật), phải giữ được sự bí mật của ý nghĩ (tức ý mật) và phải giữ được sự bí mật của ngôn ngữ (tức ngữ mật). Để giữ được sự bí mật của thân thể, các pháp sư phải thực hiện các ấn quyết; để giữ được sự bí mật của ý nghĩ, người ta phải tu tam muội[8]; để giữ được sự bí mật của ngôn ngữ, họ phải sử dụng phương tiện thần chú. Thần chú đối với pháp sư Mật tông được coi là mật ngữ mà khi tụng đọc, chúng có hiệu lực linh nghiệm không lường hết được. Theo TYTA, thần chú Đại bi tâm đà la ni là bài thần chú Mật giáo được Từ Đạo Hạnh ngày ngày tụng niệm đủ mười vạn tám nghìn lần.

Cũng như các pháp sư Mật giáo khác, Từ Đạo Hạnh đã tụng niệm các bài thần chú khác nhau để chữa bệnh, trừ tà, trừ yêu, cầu mưa, tống trùng,… Những công việc này rất giống với cách hành đạo của các đạo sĩ Đạo giáo.

Vậy con người pháp sư của Từ Đạo Hạnh được ngài chuẩn bị như thế nào và sau này được thể hiện ra sao?

Sách TYTA cho chúng ta biết, lúc nhỏ Từ Lộ ham chơi, lại có hành động, nói năng người đời không thể lường được; ngài lại kết bạn với đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa, ban ngày thì thổi sáo,…làm vui. Qua những chi tiết trên, chúng ta có thể hiểu được, từ khi chưa thi đỗ tăng quan và xuất gia tu Phật, Từ Lộ đã có sự chuẩn bị để sau này đi sâu vào Đạo giáo.

Nhưng trước khi tìm đến học Đạo giáo ở các đạo sĩ trong nước và nước ngoài, Từ Đạo Hạnh học Đạo giáo ở đâu? Về vấn đề này, sách TYTA hé cho chúng ta một chi tiết nhỏ, rằng: “Nguyên trước kia, thân phụ ông là Từ Vinh có điều xích mích bị Diên Thành hầu cho là dùng tà thuật xúc phạm đến mình, vì vậy, Diên Thành hầu nhờ sư Đại Điên dùng phép thuật đánh chết, ném xác xuống sông Tô Lịch”[9]. Như vậy, cha ngài là Từ Vinh cũng có biết một số phép thuật của đạo sĩ Đạo giáo và đã bị một vị sư dùng phép thuật đánh chết. Rất có thể Từ Vinh đã truyền dạy cho con trai mình một số phép thuật của Đạo giáo mà Từ Vinh đã học được.

Tuy nhiên, một điều cũng cần được lưu ý là, mục đích học các phép thuật Đạo giáo của Từ Đạo Hạnh có lẽ không phải nhằm trở thành Đạo sĩ mà chỉ là để tạo điều kiện để ngài có sự thuận lợi trong việc trừ yêu, trừ tà, trị bệnh cứu người, để… tiến thân và để trả thù cho cha. Trên thực tế, ngài đã thực hiện được những mục đích đó. Với phép thuật mà ngài không ngừng học hỏi, Từ Đạo Hạnh đã đánh chết Đại Điên, trả thù cho cha; ngăn chặn âm mưu thác sinh để được trở thành thái tử của Giác Hoàng; thác sinh vào làm con trai Sùng Hiền hầu.

Từ hiện tượng Từ Đạo Hạnh, chúng ta thấy rằng, mục đích học các phép thuật Đạo giáo của nhiều tăng sĩ thời kỳ Đinh, Tiền Lê và thời kỳ Lý- Trần cũng có mục đích như Từ Đạo Hạnh: học phép thuật của Đạo giáo nhưng không có mục đích trở thành đạo sĩ mà vẫn làm tăng sĩ.

4. Từ Đạo Hạnh là vị tăng sĩ am hiểu đời sống dân gian

Sách TYTA chép rằng: “… ban ngày ông thổi sáo, đá cầu, vui chơi”[10] và còn kết bạn thân với người kép hát là Vi Ất. Đây không phải cốt cách của một nho sĩ hay của một tăng sinh, cũng không phải cốt cách của một đạo sinh mà đó là cách sinh hoạt vui chơi trong những ngày nông nhàn của trai tráng nơi thôn dã ngày xưa mà thôi.

Lại theo truyền thuyết dân gian vùng chùa Thầy và sự ghi chép của một số sách, Từ Đạo Hạnh còn là người có công truyền dạy nghệ thuật múa rối nước ở vùng này. Những chi tiết như thế cũng cho chúng ta biết rằng, Từ Đạo Hạnh là một tăng quan có am hiểu và quan tâm đến đời sống dân gian.

Các thư tịch cổ cũng không chép quê cha của Từ Đạo Hạnh ở đâu, mà TYTA chỉ nói: “Nguyên Từ Vinh trọ học ở hương Yên Lãng, lấy vợ là con gái nhà họ Tăng rồi cư trú ở đó”[11]. Như vậy làng Yên Lãng (làng Láng) là quê ngoại của Từ Đạo Hạnh chứ không phải quê nội. Tuy nhiên, dù sinh ra ở quê ngoại, nhưng cốt cách của chàng trai Từ Lộ vẫn là cốt cách của một thanh niên đất kinh kỳ hào hoa thanh lịch và phóng khoáng.

Một chi tiết cũng chứng tỏ Từ Đạo Hạnh là vị tăng sĩ am hiểu đời sống dân gian và tâm lý dân gian. Đó là chi tiết: khi biết phép thuật đã viên thành, “Sư bèn đến cầu Quyết thử ném gậy xuống giữa dòng nước xiết. Chiếc gậy liền trôi ngược dòng đến cầu Tây Dương thì dừng lại”[12]. Về hiện tượng “chiếc gậy liền trôi ngược dòng”, theo “Bắc thành địa dư chí lục”, thì:

“Sông Tô Lịch ở phía đông thành, phân lưu từ sông Nhị, theo thành mà từ phiá Bắc chảy qua phía Tây gặp sông Hà Liễu và sông Nhuệ. Hai sông cùng chảy đổ vào. Sông này, mùa Đông và mùa Xuân thì khô cạn, mùa Thu và mùa Hạ thì thuyền đi được… Quốc sử của Ngô Sĩ Liên nói: “Sông này khi có mưa lớn thì nước đầy ứ mà chảy ngược. Họ Ngô (tức Ngô Sĩ Liên) nói: “Sông Tô Lịch chảy ra từ sông Nhị, bắt đầu từ phường Hà Khẩu chảy qua Tây Hồ, Thụy Chương, Yên Hoa và Yên Quyết thì cạn, thuyền đi không được, vì dân ở hai bên để đá ngói lấp đầy, khi mưa to, nước ứ đọng không chảy được, nên phải chảy ngược lại thì không có gì là lạ”[13].

Từ Đạo Hạnh vốn là người sống nhiều năm ở gần đoạn sông này, không thể không biết thực tế của dòng sông Tô Lịch qua các mùa. Và chắc chắn ngài ném cây gậy để thử pháp lực trước khi quyết định đánh Đại Điên là vào mùa nước sông đang to, nên chiếc gậy theo dòng nước mà trôi ngược lên phía Tây cầu Tây Dương… Thủ thuật này của Từ Đạo Hạnh nhằm tìm kiếm sự đồng tình của dư luận trong việc đánh Đại Điên. Điều đó chứng tỏ ngài rất am hiểu tâm lý hiếu kỳ trong dân gian.

Tóm lại, từ lâu đã có nhiều sách viết về thiền sư Từ Đạo Hạnh, nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy các học giả đi trước vẫn chưa làm nổi bật được sự độc đáo của ngài với tư cách là nơi hội tụ và tỏa sáng tinh hoa của các giá trị văn hóa đương thời. Một vài ý kiến trên đây của chúng tôi mới chỉ là một số suy nghĩ bước đầu, mong góp phần tìm hiểu về một trong những hiện tượng độc đáo trong lịch sử Phật giáo Việt Nam thời kỳ Đinh- Tiền Lê và thời kỳ Lý- Trần. Chúng tôi nghĩ rằng, tìm hiểu hành trạng của thiền sư Từ Đạo Hạnh có thể xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng cách tìm hiểu ngài ở góc độ như là kết quả của quá trình tích hợp các giá trị văn hóa cũng là một cách tiếp cận cần được xem xét.

Nguyễn Quang Khải

 


[1] Thiền uyển tập anh, (bản dịch của Ngô Đức thọ, Nguyễn Thúy Nga), NXB Văn học, H.1990, tr.197.

[2] Theo Thiền uyển tập anh, Sùng Phạm họ Mâu, dáng vóc to lớn, tai dài đến vai. Sau khi xuất gia, ngài đến tham vấn thiền sư Vô Ngại ở Hương Thành, được truyền tâm ấn. Rồi sư đi vân du khắp nơi, sang tận Thiên Trúc để rộng cầu hiểu biết. Chín năm sau, sư trở về, tinh thông cả giới, định. Rồi sư sang chùa Pháp Vân (nay là chùa Dâu thuộc xã thanh Khương huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh) thuyết giảng Phật pháp. Học trò các nơi qui hướng rất đông. Vua Lê Đại Hành mấy lần thỉnh sư về kinh để hỏi han huyền chỉ. Vua rất vừa ý, tiếp đãi long trọng. Năm Đinh Dậu, niên hiệu Quảng Hựu thứ 3, triều Lý Nhân Tông (1087), sư qui tịch, thọ 84 tuổi.

[3] TYTA, s.đ.d, tr.197.

[4] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB Lá Bối, Sài Gòn 1974, tr. 138

[5] Nguyễn Lang, s.đ.d, tr. 127.

[6] Theo TYTA, s.đ.d, tr.201.

[7] Theo TYTA, s.đ.d, tr.203

[8] Sách Trí độ luận quyển 5 định nghĩa Tam muội: :Thiện tâm trụ ở một chốn bất động, đó gọi là Tam muội”.

[9] TYTA, s.đ.d, tr. 198

[10] TYTA, s.đ.d, tr.197

[11] TYTA,s.đ.d, tr. 197

[12] TYTA,s.đ.d, tr.198

[13] Dẫn theo Lê Mạnh Thát trong Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, NXB TP Hồ Chí Minh năm 1999, tr. 548.

 Nguồn: Ban Tôn Giáo Chính Phủ

Bình luận