Nhận diện Phước đức và Công đức
Trên lộ trình tu giác ngộ giải thoát
Tu tập để có phước báo là một điều tốt, nhưng chưa thể giúp mình thoát khỏi khổ đau sinh tử Luân hồi. Chỉ có những người biết tu tập công đức mới có thể vượt thoát sinh tử. Hơn nữa, tuy phước báo ở bên ngoài trợ giúp rất nhiều cho sự tu tập nội tâm, nhưng không thể vì đó mà có được công đức.
Phước đức và công đức có chung một mục đích là tạo dựng lợi ích cho việc giác ngộ giải thoát mang lại hạnh phúc cho con người. Nhưng về mặt hệ quả lại có những khái niệm khác biệt riêng.
- Phước đức là những việc làm lành thiện, được làm ở bên ngoài thuộc về hình tướng như: bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp người…Có công năng giảm thiểu nghiệp chướng, tiêu trừ quả báo, vượt qua tai nạn và được may mắn trên đường đời, bớt chướng ngạt trên đường đạo. Chứ không giúp thoát ly được trầm luân sinh tử. Phước đức có tính cách hữu lậu.
- Công đức là sự xoay nhìn lại nội tâm, dùng trí sáng suốt, thấu rõ sự thật, dứt trù mê lầm phiền não thuộc trí huệ tu tập mà có. Công đức thuộc công phu tu tập “bên trong”của chính mình, nhờ hành trì theo lời Phật dạy, như tu tập tam vô lậu học “Giới, Định, Tuệ” và tam tuệ học “Văn, Tư, Tu, nhằm mục đích cứu cánh: thoát khỏi Lục đạo sinh tử luân hồi. Công đức có năng lực giúp chúng ta vượt qua bể khổ, sông mê chóng đến bờ giác ngộ và giải thoát. Công đức có tính cách Vô lậu, chuyển hóa tâm tánh của người tu từ phàm phu tục tử, để trở thành Thánh trí. Do vậy, trong Tu tập, bố thí, cúng dường, làm từ thiện… chúng ta cũng phải tìm hiểu để khi làm Phật sự cho đúng Chánh pháp, nhằm đem lại lợi ích như pháp mà Đức Phật và các Tổ thầy dạy.
Theo kinh điển và lời dạy của đức Phật, trong việc Bố thí cũng có sự khác nhau: Bố thí có công đức, là giúp cho người nào đó nhận ra Phật tánh của chính người đó. Còn Bố thí thanh tịnh thì có phước đức lớn, nhưng vẫn còn vọng cầu theo hình tướng của mình. Để giúp chúng ta hiểu được sự khác biệt giữa Phước đức và Công đức, trong cuốn “ Đức Phật dạy tu Thiền tông” của soạn giả Nguyễn Nhân ( Nxb-TG ấn hành 2015-tr 101) có đề cập rõ về vấn đề này. Dưới đây là nội dung câu hỏi và lời dạy của Đức Phật trong Hội tu pháp môn Thanh tịnh thiền (hay còn gọi là Như Lai thiền). Xin được dẫn nguyên văn cuộc hỏi đáp giữa Tỳ Kheo Thượng Hiển Vi và Đức Thích Ca Văn trong hội chúng:
Tỳ Kheo Thượng Hiển Vi “Từ chỗ ngồi đứng dậy, ra trước Đức Phật, quỳ gối, trịch vai áo bên phải, chắp tay bạch Đức Phật rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn: Pháp môn Thanh tịnh thiền này nghe qua rất dễ, xét về thực tế thì không dễ chút nào. Con đã thực hành Tâm thanh tịnh, nhưng nó không thanh tịnh được. Kính xin Đức Thế Tôn dạy con cách nào cho tâm con tự nhiên thanh tịnh, kính xin Đức Thế Tôn day con ?
Đức Phật dạy:
- Này Tỳ Kheo Thượng Hiển Vi: Pháp môn Thanh tịnh thiền này, hôm nay Như Lai dạy cho đại chúng ở đây, là nhiệm vụ của một vị Phật phải làm như vậỵ. Chớ pháp môn này, trong cả ngàn người họa may mới có một vài người thực hiện được, Phật nhãn xem ông ở tần số nào rồi trả lời cho ông.
Đức Phật nhìn thoáng
Vì sao vậy ?
- Vì trong con người, ai cũng sống bằng tần số nghiệp riêng của mình. Để Như Lai sử dụng Phật nhãn xem ông ở tần số nào rồi trả lời cho ông.
Đức Phật nhìn thoáng qua, trả lời cho Tỳ Kheo Thượng Hiển Vi:
- Nghiệp làm người của ông ở đời này chỉ có phước đức, chứ công đức ông chưa có, nên đời này ông tu Thanh tịnh thiền không thành công được. Nếu ông muốn giải thoát, thì từ bây giờ ông hãy cố gắng tạo ra công đức thật nhiều, thì ông mới mong giải thoát được.
Nghe Đức Phật trả lời câu hỏi của mình, ông Tỳ Kheo Thượng Hiển Vi hết sức vui mừng đảnh lễ Đức Phật lui ra.”
Nói về tu tạo Phước đức và Công đức. Đức Phật cũng dạy rõ trong pháp môn tu Thanh tịnh thiền tông:
-
Người tạo ra phước đức là để hưởng, nên phải đi theo chiều luân hồi để hưởng phức đức của mình đã tạo ra. (tức hưởng phước dương).
-
Người tạo ra công đức, để đi vào Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh, thì số công đức này biến thể là pháp thân thanh tịnh.
Khi tánh Phật được Điện Từ Quang hút qua cửa Hải Triều Dương, còn vỏ bọc tánh Người không qua được, nên nó phải đi theo vòng luân hồi của tánh Người để tiếp nhận chúng sinh khác từ cõi trên xuống hoặc từ cõi dưới lên. Để tu giải thoát ra khỏi Lục đạo luân hồi. Đức Phật dạy rất rõ về việc tạo Phước đức và Công đức. Đặc biệt là vấn đề tạo ra công đức để vượt thoát ra khỏi sức hút của vòng xoáy Luân hồi sinh tử theo chiều Vật lý Âm Dương của Thế giới này, để trở về với Phật giới.(tức quê hương đích thực của mình).
Trong pháp môm tu Thanh tịnh thiền, Như Lai có huyền ký dạy công thức tu vượt cửa Hải Triều Dương có kệ xin trích như sau:
…Đến đây ngã rẽ hai đường
Tánh người lục đạo, Ý về vô sinh.
Thiền thanh phải hiểu cho rành
Công đức vào Bể, Phước quanh luân hồi.
Hai câu cuối của kệ nêu trên được hiểu: Công đức giúp vào Bể tánh thanh tịnh Phật tánh. Còn Phước đức thì còn nằm trong luân hồi lục đạo. Căn cứ vào kệ nói trên của Đức Phật dạy, trong pháp môn tu Thanh tịnh thiền. Nếu ai tạo được Công đức và biết pháp môn Thanh tịnh thiền, thì mới trực nhận được rõ ràng con đường giải thoát. Còn với Phước đức, nếu người tu chưa nắm được công thức tu giải thoát và chưa đủ duyên để về Phật giới thì hưởng Phước Dương về cõi lành.
Cũng với nội dung trên, báo Giác Ngộ số ra mới đây, tác giả Quảng Tánh có bài viết “Công đức xuất gia”nội dung như sau:
Ai cũng biết xuất gia tu hành chánh pháp thì gieo trồng được nhiều Công đức, phước báo. Nhưng thực tiễn thì không phải ai cũng được xuất gia, nên Thế Tôn mới trợ duyên cho hàng Phật tử tại gia phát tâm xuất gia gieo duyên có thời hạn, ít nhất là 1 ngày đêm tập sự xuất gia như tu Bát quan trai chẳng hạn.
Thế nên ngoài việc sống tốt, làm nhiều việc thiện, hàng Phật tử nên dành thời gian phát tâm tham dự các khóa tu, nhất là khóa tu xuất gia gieo duyên ngắn hạn. Nhờ đó Phước đức mới tạo thêm, Công đức được vun bồi, thành tựu phước quả xa lìa ba đường ác mà tái sinh vào cõi trời. (xin trích nguyên văn lời kinh trong bài)
“ Một thời Phật ở Tỳ-xá-ly, bên ao Di-hầu, cùng với năm trăm chúng đại Tỳ-Kheo.
Khi ấy Thế Tôn đến giờ đắp y, ôm bát, cùng A-nan vào thành Tỳ-xá-ly khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ-xá- ly có đại trưởng giả tên Tỳ-la-tiên, giàu có, nhiều tài sản chẳng thể tính kể, nhưng lại keo kiệt tham lam không có lòng bố thí, chỉ hưởng phước cũ, không tạo thêm phươc mới. Lúc đó trưởng giả ấy đang cùng các dâm nữ ở hậu cung đàn hát, ca xướng vui chơi.
Thế Tôn đến hướng ấy, Ngài biết mà vẫn hỏi Tôn giả A-nan:
- Nay Ta nghe tiếng hát xướng, kỹ nhạc là ở nhà nào ?
A-nan bạch Phật:
- Đó là ở nhà trưởng giả Tỳ-la-tiên.
Phật bảo A-nan:
- Trưởng giả này sau bảy ngày sẽ chết và sanh trong địa nguc Thế Khốc. Nay trưởng giả này phước cũ đã hết, lại không chịu tạo phước mới.
A-nan bạch Phật:
- Có nhân duyên nào khiến trưởng giả này sau bảy ngày không chết chăng ?
Phật bảo A-nan:
- Chẳng có nhân duyên nào mà làm ông ta không chết được. Những hạnh ông ta gieo trồng ngày xưa, hôm nay đã hết. Điều này không thể tránh khỏi.
A-nan bạch Phật:
- Có cách nào khiến trưởng giả này không sinh vào địa ngục Thế Khốc chăng?
Phật bảo: - A-nan ! Có cách này có thể khiến trưởng giả không vào địa ngục.
A-nan bạch Phật: - Những nhân duyên nào khiến trưởng giả không vào địa ngục?
Phật bảo A-nan:
- Nếu Trưởng giả này chịu cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo thì có thể khỏi tội này được.”
(Kinh Tăng Nhất A Hàm tập III phảm 40 Thất Phật ( trích) VNCPHVN ấn hành 1998 tr33)
Cùng với câu chuyện vấn đạo giữa Tôn giả A-nan và Đức Thế Tôn được trích trong kinh A hàm nêu trên. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Đức Lục Tổ Huệ Năng khi nói về Công đức và Phước đức, Lục Tổ cũng mượn lời của Đức Phật day các đệ tử: “ Các ông không chịu tìm công đức để nuôi lớn “Pháp thân”, mà cứ lo tìm phước đức; Phước đức của các ông dù có nhiều như núi, khi mất thân này, cũng không giúp các ông ra khỏi luân hồi sinh tử được!” Từ lời dạy trên của Đức Phật, Lục Tổ cũng muốn nói lại câu chuyện mà vua Lương Võ Đế hỏi Tổ Bồ Đề Đạt Ma như sau:
- Trẫm một đời cất chùa, độ Tăng tu hành có công đức chăng?
Tổ Bồ Đề Đạt Ma trả lời:
-
Thật tình Bệ hạ không có công đức chi cả !
Là Phật tử, chúng ta chắc không lạ câu chuyện này: Vua Lương Võ Đế, là một vị vua không hiểu công đức là gì và phước đức là sao, nên nhà vua lo cất chùa cho thật to, thật nhiều và giúp cho càng nhiều người tu càng tốt. Việc làm này, chỉ nhằm đến hai hệ quả đó là: Tạo phước đức để giữ gìn ngôi báu và sự giầu sang lâu dài cho chính mình . Và ngược lại, nếu việc xây dựng nhiều chùa to, giúp nhiều người tu mà đi ngược lại chánh pháp- đưa mê tín dị đoan vào Ngôi nhà Như Lai, thì tội lỗi cũng không nhỏ, nói chi đến Công đức. Chính vì lẽ này, mà Tổ Bồ Đề Đạt Ma trả lời thẳng với vua Lương Võ Đế là, Bệ hạ không có công đức trong việc xây chùa, độ Tăng, đây là một thực tế theo chánh pháp.
Để phân biệt rõ Công đức và Phước đức, Đức Phật dụ như sau:
-
Phần công đức: Đức Phật ví như người đó tạo ra được khối vàng ròng, khối vàng ròng này, nó đi theo người tạo ra nó suốt dòng đời, khi nào người đó vào Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh, khối công đức này biến là Pháp thân Thanh tịnh.
-
Phần Phước đức: Đức Phật ví như người đó tạo ra được một số tiền bằng giấy. Số tiền bằng giấy này, nếu người tạo ra không cẩn thận bị lửa đốt sẽ cháy tiêu hết.
Vậy Đức Phật dạy: Công đức và phước đức, người tu theo đạo của Như Lai phải hiểu cho thật rõ hai phần này. Còn không biết, mà làm gì cũng nói là có công đức thì thật là sai lầm, nếu không muốn nói là có tội nặng với Chánh pháp.
Về vấn đề tu tạo Phước đức và Công đức, chúng ta thấy Đức Phật và các Tổ thầy đã nói tới nhiều ở các kinh điển và sách giảng giải Phật pháp. Đây là lĩnh vực thuộc Duy thức luận (không hình tướng) nên khó chuyên chở được thực tế, khi mà con người còn bám chấp vào Duy lý cực đoan. Do vậy, người viết bài này cũng chỉ xin đưa ra một vài dẫn chứng nhỏ để đạo hữu chúng ta cùng tìm hiểu, mở rộng khái niệm về vấn đề này. (chứ tuyệt nhiên không có ý gây thêm rắc rối phiền não)
Công đức và Phước đức, theo cách nói hiện đại ngày nay thuộc phạm trù “mềm” tinh thần khó kiến giải. Khái niệm về Tánh Người và Tánh Phật, nếu là Phật tử thì ai cũng hiểu và phân biệt được. Nhưng để hiểu sâu sắc và rốt ráo thì không phải dễ dàng.
Chính vì vậy, Tổ thầy thường nói, Phật tại tâm, có nghĩa là Phật ngay tai trong lòng mình. Nhưng cũng lại rất xa, nếu chúng ta chưa hiểu, chưa giác ngộ được đạo Phật.
Vì sao vậy ?
Vì con người còn bị kẹt và dính cứng vào 16 thứ đó là: Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Danh, Tài, Sắc, Mạm, Nghi, Tham, Sân, Si, Ái, Kiến. Trong đó có Tưởng, Tham, Sân là mạnh nhất. Bởi vậy, Đức Phật dạy và chỉ thẳng cho chúng ta thấy Bốn “căn bệnh nặng”:
-
Bệnh tưởng tượng
-
Bệnh thiếu chánh trí, nên hay phục tùng và nghe người khác.
-
Bệnh ham thần quyền, sợ Thần linh.
-
Bệnh không dám nhận Phật tánh nơi mình.
Chính về điều này, mà người tu Phật nói chung và người làm thiện nguyện nói riêng, thường mắc chấp tưởng, lầm lẫn giữ Công đức và Phước đức. Nên chưa đoạn được phiền não, thậm chí có những trường hợp càng tu, càng làm việc thiện lành, thì phiền não càng gia tăng, lợi ích đem lại từ Phật pháp rất ít ỏi. Bởi vậy, không có công đức nào bằng công đức của Tâm thanh tịnh sáng suốt nhìn thấu sự thật. Công đức đó do chính đức Phật đã đạt được dưới cội Bồ-đề sau bốn mươi chín ngày đêm ngồi yên lặng quán xét. Và về sau, các chư Tổ tiếp nối được thành tựu Công đức trí huệ bất diệt này, chẳng những mãi mãi không bị suy hao, mà ngày càng sáng tỏ.
Theo bước chân Phật và Tổ thầy, ngày nay chúng ta cũng cần phải tu từ bên trong nội tâm và làm mọi việc thiện lành ở bên ngoài, là để hỗ trợ cho việc tu tập tốt hơn. Như loài chim phải có đôi cánh khỏe mới bay cao, bay xa. Người tu Phật cũng phải lấy Phước-Huệ song tu như đôi cánh loài chim, để bay cao, bay xa trên lộ trình Giác ngộ-Giải thoát.
Tài liệu tham khảo:
- Đức Phật dạy tu Thiền tông.- Soạn giả Nguyễn Nhân. (Nxb-Tôn giáo ấn hành-2015)
- Những câu hỏi vè Thiền tông – Soan giả Nuyễn Nhân (Nxb- Tôn giáo ấn -hành- 2016)
- Bài Công đức và Phước đức – Thích Minh Thành (Báo Điên tử-Đạo Phật Ngay Nay-2016)