Ấn tượng sông Hằng
Trong bầu không khí rộn ràng và không gian nhá nhem buổi sớm, nếu người nào mẫn cảm, chắc chắn sẽ bị một cú sốc về tinh thần khi đối diện với vô số những ảnh tượng kỳ lạ bên sông Hằng. Với người Ấn, được tắm dưới dòng sông thiêng trước khi trở về cát bụi là một đại hạnh. Họ tin rằng nước sông thiêng sẽ rửa sạch tội lỗi của họ. Do đó nhiều người ở xa, sau khi chết thi hài cũng được đưa về đây để tắm nước sông trước khi đưa lên bờ hỏa táng…
Hằng hà sa số(Phạn: Ganga-nadi-valuka) là thành ngữ mà tôi đã nghe từ khi còn bé, khi chưa biết gì về Phật giáo. Thế rồi lớn lên, khi tụng đọc kinh điển và biết Đức Thế Tôn thường đi hóa đạo dọc lưu vực sông Hằng, dĩ nhiên đó là một địa điểm mà tôi rất muốn đến khi được đi Ấn Độ. Đến để biết dòng sông thiêng của người Ấn, đến để tìm những dấu chân trên cát đã vô tình bị vùi lấp dưới lớp bụi thời gian.
Sông Hằng là một trong ba dòng sông lớn nhất của Ấn Độ. Sông này bắt nguồn từ dãy Hy Mã Lạp Sơn, chảy theo hướng Đông Nam 800km, đến miền Đông Bengale, hợp với dòng sông Brahomaputra rồi chảy vào Ấn Độ Dương. Sông dài khoảng 2.700km. Bình nguyên và thượng lưu sông Hằng là trung tâm văn minh Ấn Độ vào thời đại A Thát Bà Phệ Đà và Phạm thư. Vùng trung lưu của sông Hằng là trung tâm văn minh Ấn Độ thời đại Áo nghĩa thư. Đến thời kỳ Đức Phật, hai bên bờ sông Hằng trở thành khu vực giáo hóa trọng yếu của Ngài và đệ tử. Vùng này dân cư đông đúc, kinh tế phát triển, giao thông tiện lợi, sản vật phong phú, cho nên người Ấn xem những vùng dọc lưu vực sông Hằng là thánh địa.
Lần đầu tiên tôi nhìn thấy sông Hằng là một buổi chiều thu nắng nhạt, khi từ Bồ Đề Đạo Tràng ở thành Gaya về Varanasi để chiêm bái Sanath (Lộc Uyển), nơi Đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên. Ngồi trên xe, nhìn thấy sông Hằng hiện ra mà cứ ngỡ mình lạc vào một cảnh giới khác, ở một thời gian khác. Tôi nhổm dậy, thu bằng hết cảm quan cảnh vật xung quanh vào tầm mắt mình. Dường như có cái gì đó không phải, chưa phải cái mà tôi muốn gặp. Xe vụt qua trong chốc lát, cảm giác kia chợt tan biến, khiến tôi tiếc nuối ngẩn ngơ. Lòng thôi thúc phải đến bằng được bờ sông thiêng để hai tay vốc nước, để chân in trên cát, để tất cả những ấn tượng vô ngôn trong tâm thức dựng hình qua tiết nhịp ban sơ.
Người ta bảo muốn ngắm cảnh đẹp sông Hằng thì phải đến vào buổi sáng sớm, khi mặt trời chưa mọc. Do đó tôi chỉ dành buổi chiều còn lại để đi vào tham quan thành phố Varanasi. Varanasi chính là thành phố Ba La Nại mà ta nghe nhắc đến rất nhiều trong kinh điển. Thời cổ nước này có tên là Kasia, thời cận đại tên là Vanares. Theo Đại Đường Tây Vực ký 7, đô thành của nước này nằm bên bờ phía Tây sông Hằng, dân cư đông đúc, tánh tình hiền hậu, lịch sự, phần nhiều tin theo ngoại đạo, số ít theo Phật giáo. Tăng đồ phần đông học theo giáo pháp của Chánh lượng bộ thuộc Tiểu thừa. Phìa Đông Bắc của thành này có sông Ba La Tỷ (Varara), phía Tây con sông có tháp A Dục vương. Cách sông này hơn 5km về hướng Đông Bắc có một cái nền cũ, tương truyền đây là nơi mà Bồ tát Di Lặc và Bồ tát Hộ Minh được thọ ký. Tây Bắc thành là vườn Lộc Uyển, Đức Phật về sau cũng thường lui tới đây giáo hóa. Đây là một trong 6 địa điểm lớn mà Đức Phật từng đến thuyết pháp. Trong thành có đến vài ngàn ngôi đền Ấn giáo, nổi tiếng hơn cả là chùa Vàng.
Nhưng ghi chép của ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII đủ sức thu hút du khách tìm đến thành phố cổ xưa bên bờ sông Hằng quyến rũ. Vườn Lộc Uyển thì khỏi phải nói đối với người con Phật, còn cái tên Ba La Nại đã thôi thúc tôi gọi một chiếc rickshaw (một dạng xích lô đạp, giống xe lôi miền Tây ờ Việt Nam) đi vào tham quan thành phố.
Chiều Varanasi thế kỷ XXI hay thế kỷ XII? Một thành phố cổ đến không ngờ, không phải ở kiến trúc của nó, mà ở tất cả nét đặc trưng của một xã hội cổ pha lẫn những khách du. Mật độ dân số ở đây đông đến khủng khiếp, xe rickshaw phải nhích từng mét.Những khu phố cực kỳ phức tạp che bớt cái nắng chang chang và nóng hầm hập dưới những hàng quán bày bán đủ thứ từ vải vóc đến hoa trái. Tôi lần lượt đến thăm ba nơi mà tôi cho rằng cần thiết. Thứ nhất là nơi dệt vải lụa Kasia. Lụa Kasia nổi tiếng từ thời xa xưa, khi tẩn liệm kim thân của Đức Phật trước lúc trà tỳ, theo các ghi chép trong kinh A Hàm thì cũng dùng vải lụa Kasia. Ở đây vẫn còn sử dụng những máy dệt bằng tay thô sơ từ nhiều thế kỷ trước, vì thế người Tây phương rất thích đến những nơi này. Những khúc lụa với những gam màu sặc sỡ đều được để giá bằng đô-la rất đắt.
Điểm thứ hai tôi đến là một trường đại học của Phật giáo Tây Tạng – Dim Universty-thường được gọi là trường Tibetan Languger. Trường đại học này được chính phủ Ấn Độ tài trợ toàn bộ với mục đích bảo tồn các cổ ngữ Sanskrit, Pali, Hindu. Ở đây có một thư viện lớn nhất Ấn Độ hiện nay. Trong thư viện có rất nhiều cổ thư được sắp xếp hiện đại. Trước đây đã từng có vài du học tăng Việt Nam học tại học viện này. Các nhà sư Tây Tạng dắt tôi đi tham quan từng dãy ký túc xá, rất cởi mở và vui vẻ.
Điểm thứ ba tôi đến là một bệnh viện từ thiện của Ấn giáo – Swami Vivekananda Centenary Memorial. Bệnh viện này do Vivekananda – một người Ấn kiểu mẫu mà tôi hằng ngưỡng mộ- kiến lập. Bệnh viện miễn phí, do các giáo sĩ Ấn giáo phục vụ không lương. Trước sân viện có pho tượng Vivekananda rất đẹp. Vào đây để thăm và thấy nỗi khổ của giới cùng đinh Ấn Độ. Dù không đi sát để tâm sự cùng họ, song khi bước ra khỏi bệnh viện, tự dưng tâm hồn cũng chùng xuống với nhiều ý tưởng mang mang về thân phận.
4 giờ 30 sáng hôm sau, tôi đã có mặt bên bờ sông Hằng. Trong màn sương đêm dày đặc, hàng ngàn người đã cởi quần áo đứng tắm bên bờ sông. Vài ngọn đèn hiu hắt đủ thấy bóng của những tòa lâu đài cổ chạy dọc suốt bờ sông. Bắt chước mọi người, tôi cũng mua một tràng hoa vạn thọ đeo vào cổ và xuống một chiếc xuồng để chạy dọc bờ sông. Vô vàn những ngọn nến được thả trên sông để cầu nguyện cho những hương hồn người chết vừa được thiêu gần đâu đó. Trên tường những tòa lâu đài cổ, hình tượng của những vị thần Shiva, Visnu khổng lồ cùng những hình thù quái dị nhìn xuống dòng sông. Tôi lạc vào một thế giới hoàn toàn xa lạ. Cũng nến và hoa, nhưng nến và hoa của một cảnh tượng đầy âm khí, rờn rợn và cổ điển đến lặng người. Đúng 5 giờ, mặt trời như một con quái vật nhô lên bên kia bờ sông đầy huyền hoặc. Tôi đã hiểu vì sao người ta bảo đến nơi này phải đi từ sáng sớm. Tôi đã bao nhiêu lần trong đời ngắm cảnh tượng bình minh, nhưng chưa bao giờ có cảm giác lạ kỳ như sáng hôm ấy. Mặt trời lên rất nhanh, lớn bằng một cái nong, tròn vành vạnh. Màu của nó tôi không tả được, nữa đỏ nữa đen, đứng lặng rồi lắc lư, như rùng mình nhô lên bên bờ sông lặng. Tôi không thể gọi đó là một cảnh tượng đẹp, tôi chỉ nói rằng nó vô cùng ấn tượng.
Chiếc xuồng chầm chậm được chèo đi ven bờ. Vộ số những đạo sĩ Hindu ngâm mình dưới dòng nước lạnh cắt da, hướng về phía mặt trời cầu nguyện. Có kẻ đứng im lìm bất động như đang luyện tập một pháp tu, có kẻ dùng hai tay vốc nước tát về phía mặt trời với một động tác khá điệu nghệ và kỳ lạ…Đủ thứ màu sắc tôn giáo trên một khúc sông này. Trong bầu không khí rộn ràng và không gian nhá nhem buổi sớm, nếu người nào mẫn cảm , chắc chắn sẽ bị một cú sốc về tinh thần khi đối diện với vô số những ảnh tượng kỳ lạ bên sông. Khi trời vừa sáng, xuồng đã đi đến một chỗ thiêu xác người chết. Với người Ấn, được tắm dưới dòng sông thiêng trước khi trở về cát bụi là một đại hạnh. Họ tin rằng nước sông thiêng sẽ rửa sạch tội lỗi của họ. Do đó nhiều người ở xa, sau khi chết thi hài cũng được đưa về đây để tắm nước sông trước khi đưa lên bờ hỏa táng. Nhiều người nghèo không có điều kiện thì sẽ chất củi thiêu ở một nơi nào đó, rồi đem tro về rải trên dòng nước sông Hằng. Thời Đức Phật, Ngài đã từng phê phán tập tục này rằng:”Nếu nước sông Hằng có thể rửa sạch tội lỗi, thì những tôm cá, các loài thủy tộc ở dưới sông ấy trong sạch hơn con người sao?”. Từ nghìn xưa đã có một bậc vĩ nhân Ấn Độ nói lời như thế, vậy mà đến ngày nay tập tục ấy vẫn thịnh hành như chẳng thể nào xóa được.
Đằng kia một xác chết đang được khiêng xuống sông. Thi hài được phủ một tấm vải đỏ, nằm trên cáng tre. Đến bờ sông, người ta nhúng cả xác chết xuống sông, tát nước lên thi thể đang phủ vải, rồi khiêng lên đặt trên một đống củi đã đốt sẳn. Không một tiếng khóc của thân nhân, đặc biệt thân nhân đến dự lễ hỏa thiêu đều là đàn ông, phụ nữ không được đi theo đến nơi này, đó là luật. Người ta không cho chụp hình cảnh thiêu người chết ở đây, ngay cả khi khiêng xuống sông người ta cũng tuyệt đối không cho chụp hình. Bên trên chỗ giàn thiêu có một dãy lầu, đó là nơi mà những người già neo đơn, biết mình gần chết nên đến ở tại đây để…chờ chết, đồng thời xin tiền du khách để mua củi thiêu xác của mình. Tôi đã đến thăm nơi này, gọi là góp thêm một khúc củi để đốt những người xem cái chết như là lẽ đương nhiên. Hôm ấy có một kỷ niệm đáng nhớ: Đứng trên lầu cao, tôi muốn”chộp”vài pô ảnh về cảnh thiêu xác người rất là…cây cỏ, nên đợi lúc không ai để ý, tôi đưa máy bấm lia bấm lịa. Ngay tức khắc, một tốp đàn ông đến vây tôi làm tôi hoảng vía. Họ là những người mà khi nảy tôi đã năn nỉ xin chụp ảnh mà họ kiên quyết không cho. Chết thật! Họ sẽ làm gì mình đây? Thu máy ảnh hay trừng phạt mình theo nguyên tắc của họ? Một gã đàn ông sấn tới nói tiếng Anh bằng một giọng rất khó nghe. Tiền? Thế thì được, nhưng bao nhiêu? Gã đàn ông chỉ tay về những người già đang ngồi chờ chết bảo tôi cho tiền cho họ, xem như một cách phạt tôi. Tôi móc túi ra, may mà chỉ trúng tờ 10 rupies, họ gật đầu. Thật nhẹ nhõm!
Ấn tượng mạnh nhất là khi trở lại với dòng sông. Một xác chết nổi lềnh bềnh trong tư thế gập người lại úp mặt xuống dòng sông. Đó là một Holiman-anh chàng chèo đò giải thích với tôi-có bốn hạng người được thả xuống sông Hằng mà không cần thiêu xác: Một trẻ sơ sinh, người bị trúng độc, người bị rắn cắn và một bậc thánh. Ôi! Xác của ông thánh nào mà sình lên trông thật khủng khiếp, to như một con bò mộng. Cách xác chết ấy chỉ vài mét, bao nhiêu người vẫn đang tắm, đang vốc nước xúc miệng tự nhiên như chẳng hề có khái niệm vệ sinh. Một người trên xuồng phát buồn nôn khi thấy cảnh tượng này. Họ phát biểu:”Sao họ chẳng có khái niệm gì về vệ sinh nhỉ?”. Tôi làm khôn phân bua: Suốt mấy nghìn năm nay họ vẫn sống như thế, đâu nghe nói ai chết vì bệnh truyền nhiễm bởi nước sông Hằng đâu. Mà thật như thế! Theo nghiên cứu của nhà môi trường học, nước sông Hằng không hề bị ô nhiễm mặc dù mỗi ngày có hàng ngàn xác chết được thả suốt chiều dài của sông. Chỉ có quanh xác chết vài phân là có vi khuẩn, sau đó những vi khuẩn này cũng tự hủy.
Tôi dừng lại nơi một giàn hỏa vừa đặt xác người mới nhúng nước sông lên, nghiêm trang đứng quan sát giây phút con người hóa thành tro bụi mà thực hành Cửu tưởng quán. Hơn ở đâu hết, người Ấn Độ xem cái chết nhẹ như lông hồng. Sáng chết, chiều thiêu, không ma chay, không đình đám, không khóc lóc kêu than, không mộ phần an táng. Bên bờ sông, những chú chó chực chờ những phần thi thể còn lại do những người nghèo vì ít củi đốt nên để thi thể không cháy hết. Trên cành cao, những chú quạ đen cũng rình rập giành phần của chó. Củi tàn, lửa tắt, Niết bàn ở đâu?
Thầy Hạnh Tấn ở Đức có kể cho tôi nghe cảnh điểu táng trên ngọn núi Kailash ở Tây Tạng mà thầy chứng kiến: Một gã đồ tể đứng chặt thân thể người chết thành từng khúc và ném ra cho lũ chim ưng giành nhau xé thịt. Cái đầu là được chẻ sau cùng, vì chim ưng rất thích món …óc người. Lòng thôi thúc một ngày nào đó tôi sẽ đến cho bằng được Tây Tạng để xem cảnh điểu táng rợn người này. Tôi không có ý đồng tình với cách hỏa táng hay điểu táng của họ, mỗi dân tộc đều có một nét văn hóa riêng. Người Trung Hoa hay Việt Nam luôn xem”nghĩa tử nghĩa tận”, người thân sau khi mất đi luôn có một ảnh hưởng nhất định với người ở lại. Nhưng cái cách tổ chức tang lễ quá rườm rà và tốn kém của người Việt hiện nay cũng không phải là hay lắm. Người ta bày vẽ quá nhiều, mổ heo mổ bò, đãi đằng chè chén, làm nặng nghiệp thêm cho người chết. Thế mà lâu ngày thành lệ. Ai không có khả năng tổ chức tang lễ linh đình thì bị xem là không tận hiếu tận tình. Tôi chợt nhớ mấy câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du:
“Phục lạp tử tôn không loại tửu
Thế gian phú quý đẳng phù vân
Bách niên đáo để giai như thị
Hồi thủ mang mang nhất phiến trần”
(Lễ bày rượu tưới phiền con cháu
Của trọng tiền nhiều mây hợp tan
Sự nghiệp trăm năm đều thế cả
Ngoảnh trông một áng bụi mơ màng)
Ấn tượng sông Hằng, suốt những ngày chiêm bái Phật tích trên đất Ấn , đối với tôi thật khó phai mờ. Những lời Phật dạy, pháp quán tưởng bất tịnh và chín phép quán về thây chết luôn là đề tài thiền quán cần thiết khi tâm ta trì trệ bởi tấm thân. Đến chứng kiến những xác chết bên bờ sông Hằng, hẳn ai cũng sẽ rút ra được bài học cần thiết cho bản thân. Do đó tôi đã ba lần trở lại khúc sông chảy qua thành phố Ba La Nại này. Cũng bát ngát sương mù, cũng bờ xanh tiếp bãi vàng, nhưng sông Hằng không có cái”Tràng giang”của Huy Cận, không có cái không khí”Hoàng Hạc lâu”của Thôi Hiệu qua bản dịch của Tản Đà. Hằng hà không làm người ta nhớ nhà, Hằng hà chỉ làm lòng người ta nghỉ về thân phận.
Trên đường đi Vaisali (Tỳ Xá Lị),đến gần thành phố Pattna(Hoa Thị Thành) có một chiếc cầu dài nhất Châu Á (7km)-cầu mang tên Thánh Gandhi-đó là chiếc cầu bắc ngang sông Hằng. Sông ở đây rất cạn, nhiều đoạn chỉ là bãi cát, cát sông vàng và mịn, nhiều hằng hà sa số, tôi thầm vui vì cảm được một thành ngữ trong kinh.
Thành phố Calcutta, cố đô của Ấn Độ, cũng được xây dựng bên bờ sông Hằng. Ở đây cũng có một chiếc cầu khổng lồ nằm gần ga xe hỏa Horal. Tôi đã một lần ngồi mãi từ 6 giờ chiều đến 11 giờ đêm bên bờ sông để ngắm những chuyến phà qua lại, nhìn những chú quạ đen giành nhau những khúc xương được ném từ những quán ăn ven bờ, những người dân lam lũ, những giới Chiên đà la sống lây lất bên sông, và cả một xã hội vừa cổ điển vừa hiện đại được diễn ra một cách quay cuồng bên dòng sông lặng, tôi chợt hiểu ra tình cảm của con người ở đây về dòng sông thiêng liêng ấy. Nó là một phần, cũng có thể là tất cả, đời sống vật chất và tinh thần của xứ sở huyền bí này.
Tại thủ đô Kathmandu ở Nepal,tôi cũng có đến tham quan Pashupatinath, một nơi thiêu xác người chết bên một dòng sông mà theo họ là sẽ hợp lưu với sông Hằng. Cảnh thiêu xác ở đây có phần vệ sinh hơn, nhưng những hình thức nghi lễ, cầu nguyện của những đồ-tỳ ở đây cũng giống như ờ Ấn Độ, đầy màu sắc Hindu. Điều thú vị là trong chuyến đi này là tôi được ngắm đỉnh núi Everest cũng như đỉnh Kailash, những nóc nhà của thế giới trên dãy Hymalaya. Ngồi trên chiếc máy bay nhỏ nhìn xuống núi Tuyết, tôi phát hiện ra những dòng nước lớn chảy từ trong kẽ núi. Đó là nơi bắt nguồn của sông Hằng hay của cả sông Cửu Long ở Việt Nam? Khi còn bé, tôi thường thắc mắc là nước sông bắt nguồn từ đâu, người lớn thường trả lời là bắt nguồn từ trên núi. Tôi cứ hỏi mãi là nước ở đâu trong núi? Rõ ràng là người lớn không trả lời được. Nhưng tôi đã chứng kiến thật sự, từ những kẽ núi quanh năm trắng xóa kia, những dòng chảy được khơi mào và luân lưu miên viễn. Bạn sẽ nghĩ gì khi chứng kiến được cảnh này? Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Tôi đã thấy tận đầu nguồn của những dòng sông lớn, những cái xuất phát điểm kia mãi mãi vẫn là miền bí ẩn ngàn đời đối với kiếp người ngắn ngủi. Chỉ có Phật mới thấu rõ mọi nhân duyên của dòng sinh diệt, nên chỉ nơi thành Xá Vệ, Ngài đã lạy đống xương khô. Chỉ có bậc đại trí mới hiểu hết được ngọn nguồn của mọi biến thiên đời sống, nên mãi ngàn năm người ta vẫn còn tắm nước sông Hằng. Chỉ có chảy trôi như một dòng sông mới không bị uẩn ức, tù đọng trong vũng lầy thân phận, nên chỉ có một gã Tăng ngồi vốc nước sông Hằng mà nhớ về con nước Cửu Long quê nhà.
(Ký sự du hành Ấn Độ)