Đạo Phật Ngày Nay

Thơ Mặc Giang – Quyển 14 (từ bài số 1301 đến 1400)

thnhattan@yahoo.com.au

 30 bài đầu: Trường Ca Pháp Hoa

              TNT Mặc Giang

 

  1. Ca ngợi Kinh Pháp Hoa 00 (Tác giả xin mở)
  2. Trường Ca Pháp Hoa 01 (Phẩm Tựa, thứ 1)
  3. Trường Ca Pháp Hoa 02 (Phẩm Phương Tiện, thứ 2)
  4. Trường Ca Pháp Hoa 03 (Phẩm Thí Dụ, thứ 3)
  5. Trường Ca Pháp Hoa 04 (Phẩm Tín Giải, thứ 4)
  6. Trường Ca Pháp Hoa 05 (Phẩm Dược Thảo Dụ, thứ 5)
  7. Trường Ca Pháp Hoa 06 (Phẩm Thọ Ký, thứ 6)
  8. Trường Ca Pháp Hoa 07 (Phẩm Hóa Thành Dụ, thứ 7)
  9. Trường Ca Pháp Hoa 08 (Phẩm Ngũ bá Đệ tử thọ ký, thứ 8)
  10. Trường Ca Pháp Hoa 09 (Phẩm Thọ Học, Vô Học, thứ 9)
  11. Trường Ca Pháp Hoa 10 (Phẩm Pháp Sư, thứ 10)
  12. Trường Ca Pháp Hoa 11 (Phẩm Hiện Bảo Tháp, thứ 11)
  13. Trường Ca Pháp Hoa 12 (Phẩm Đề Bà Đạt Đa, thứ 12)
  14. Trường Ca Pháp Hoa 13 (Phẩm Trì, thứ 13)
  15. Trường Ca Pháp Hoa 14 (Phẩm An Lạc Hạnh, thứ 14)
  16. Trường Ca Pháp Hoa 15 (Phẩm Tùng Địa dõng xuất, thứ 15)
  17. Trường Ca Pháp Hoa 16 (Phẩm Như Lai thọ lượng, thứ 16)
  18. Trường Ca Pháp Hoa 17 (Phẩm Phân biệt Công đức, thứ 17)
  19. Trường Ca Pháp Hoa 18 (Phẩm Tùy Hỷ Công đức, thứ 18)
  20. Trường Ca Pháp Hoa 19 (Phẩm Pháp sư Công đức, thứ 19)
  21. Trường Ca Pháp Hoa 20 (Phẩm Thường bất khinh Bồ Tát, thứ 20)
  22. Trường Ca Pháp Hoa 21 (Phẩm Như Lai Thần Lực, thứ 21)
  23. Trường Ca Pháp Hoa 22 (Phẩm Chúc Lụy, thứ 22)
  24. Trường Ca Pháp Hoa 23 (Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự, thứ 23)
  25. Trường Ca Pháp Hoa 24 (Phẩm Diệu Âm Bồ Tát, thứ 24)
  26. Trường Ca Pháp Hoa 25 (Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát, thứ 25)
  27. Trường Ca Pháp Hoa 26 (Phẩm Đà La Ni, thứ 26)
  28. Trường Ca Pháp Hoa 27 (Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự, thứ 27)
  29. Trường Ca Pháp Hoa 28 (Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát, thứ 28)
  30. Trường Ca Pháp Hoa 30 (Hồi hướng công đức - Tác giả xin kết)
  31. Trao lại cho em
  32. Ân Phụ Mẫu Tiên Rồng
  33. Thương Người Miền Trung
  34. Cát bụi hoen mờ
  35. Thế à!
  36. Quán Âm Thị Kính Việt Nam 1
  37. Quán Âm Thị Kính Việt Nam 2
  38. Mấy cuộc phù sinh
  39. Con tàu quê hương
  40. Con tàu tha phương
  41. Đừng tan tro bụi tâm hồn
  42. Biên Hòa - Chợ Quán xác xơ
  43. Ai thương Thầy Chùa
  44. Nhớ chuyện Vân Tiên
  45. Giấc ngủ quê hương (*)
  46. Như cánh chim bay
  47. Vọng cố hương
  48. Tiếng vọng núi rừng
  49. Thương cội tùng già
  50. Ai Vua, ai Cọp!
  51. “Quê hương thứ hai” nghe nhục lắm!
  52. Dìu dắt vào Nhà Như Lai
  53. Đạo Pháp và Dân Tộc
  54. Ba nghiệp thanh tịnh
  55. Ngưỡng vọng hành trạng Ngài Nhật Liên
  56. Tiễn Người thăm lại nhà xưa
  57. Tiễn bước về Tây
  58. Thương lấy Haiti
  59. Việt Nam dân tộc anh hùng
  60. Ba mươi lăm năm
  61. Quán trọ vô thường
  62. Biết thương Cha Mẹ
  63. Quê hương yêu dấu
  64. Nhớ mãi Tình Quê
  65. Một tiếng Tình Quê
  66. Chiêu hồn Lịch Sử
  67. Từ tạ Song Đường
  68. Không sao đánh đổi Tình Quê
  69. Thăm cánh hoa này
  70. Hoa Sen tám cánh
  71. Sống đi, đừng hỏi!
  72. Ca ngợi quê hương
  73. Em tôi thường hỏi
  74. Tô thắm giang sơn
  75. Hùng ca Sông Núi
  76. Tuyệt thế sơn hà
  77. Đầy bãi thuẫn mâu
  78. Dựa lưng cõi chết
  79. Cuộc lữ hành
  80. Ta mãi thiên thu
  81. Lại mình với ta
  82. Mang kiếp gió sương
  83. Cành hoa dâng Cha Mẹ
  84. Tuổi Trẻ Phật Giáo
  85. Đất Tổ, Quê Cha
  86. Gia tài của Mẹ
  87. Ngàn năm Thăng Long
  88. Tình Quê sống mãi
  89. Không bao giờ bỏ cuộc
  90. Một đời chưa trọn
  91. Tìm một bóng hình
  92. Tìm em từ thuở ban sơ
  93. Ta đi tìm em
  94. Nước Non Nhà
  95. Non nước hữu tình
  96. Nước Việt dấu yêu
  97. Ấm lạnh tình quê
  98. Quyền thiêng liêng tối thượng
  99. Bảo tồn sông núi

100.Dư đồ Tổ Quốc

--------------------------------

Ca ngợi Kinh Pháp Hoa 00

(Tác giả xin mở)

“Hơn sáu muôn lời thành bảy cuốn

Rộng chứa đựng vô biên nghĩa mầu

Trong cổ, nước cam lồ rịn nhuận

Trong miệng, chất đề hồ nhỏ mát

Bên răng, ngọc trắng tuôn xá lợi

Trên lưỡi, sen hồng phóng hào quang

Dầu cho, tạo tội hơn núi cả

Chẳng nhọc, Diệu Pháp vài ba hàng”

“Phật Pháp cao siêu ý thâm sâu

Trăm ngàn muôn kiếp biết tìm đâu

Con nay nghe thấy xin ca tụng

Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu”

Bước vào nhà Như Lai

Mặc chiếc áo Như Lai

Ăn cơm của Như Lai

Nói chuyện của Như Lai

Vào nhà Như Lai

Mặc áo Như Lai

Ăn cơm Như Lai

Nói chuyện Như Lai

Pháp Hoa vi diệu khôn lường

Ba đời Chư Phật tán dương

Chúng sanh thành tâm quy ngưỡng

Ánh trăng dẫn lối đưa đường

Con đường thẳng đến Như Lai

Pháp Hoa không luận dong dài

Pháp Hoa là vua các pháp

Phật Thừa chỉ một không hai

Nam Mô Pháp Hoa Hội

Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật

Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 01

(Phẩm Tựa, thứ nhất)

Mười phương Chư Phật trong quá khứ

Mười phương Chư Phật thời hiện tại

Mười phương Chư Phật trong tương lai

Truyền tiếp nhau và thị hiện ra đời

Chỉ vì, một đại sự nhân duyên duy nhất

Bao trùm trời đất

Vũ trụ bao la

Pháp giới hằng sa

Không ngoài Tri Kiến Phật

Tại Núi Kỳ Xà Quật

Đẹp thay Vương Xá Thành

Đại chúng hơn số ngàn

Bồ Tát hơn số muôn

Thiên nhơn hơn số ức

Đức Thế Tôn Quyền Giáo chân thật

Dùng phương tiện chuyển xe Ba Thừa

Như ngàn mây hội tụ đổ mưa

Cả trời đất nhờ mưa (ơn) pháp vũ

Đây là chuyến xe nhỏ

Đây là chuyến xe vừa

Đây là chuyến xe lớn

Ba chuyến xe là một

Khai mở Phật Tri Kiến

Giải bày Phật Tri Kiến

Tỏ ngộ Phật Tri Kiến

Chứng nhập Phật Tri Kiến

Khi nói ngàn vạn tiếng

Ngưng bặt, dứt âm thinh

Đâu là bóng là hình

« Mình với ta tuy hai mà một »

Ta với mình không một không hai

Tiếng chuông tỉnh thức ngân dài

Linh Sơn vi diệu phương đài Linh Sơn.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 02

(Phẩm Phương Tiện, thứ hai)

Đẹp thay, hai tiếng Pháp Hoa

Như Lai điều ngự Liên tòa

Đất trời sáu lần rung chuyển

Hướng về Diệu Pháp Liên Hoa

Nhiệm mầu Bổn giác diệu tâm

Sáng hơn ánh sáng trăng rằm

Thanh hơn trăng thanh mười sáu

Tam Thừa vận chuyển pháp luân

Phật tri kiến Phật khôn lường

Ba đời Chư Phật mười phương

Xuất Thánh lâm phàm Giáng Thế

Mở ra duy nhất một đường

Đường đi ngàn vạn lối

Nẻo đến chỉ một phương

Chứng ngộ lý chơn thường

Phá tan màn tăm tối

Vì chúng sanh mê muội

Vì sinh tử trầm luân

Vì biển khổ mênh mông

Quên thuyền từ bát nhã

Linh Sơn mở hội Pháp Hoa

Hoa sen diệu pháp kết tòa

Đuốc tuệ soi đường mở lối

Mười phương ba cõi gần xa

Năm châu bốn biển một nhà

Không phân chủng tộc màu da

Trí tuệ vượt tầm pháp giới

Tuyệt vời Hải hội Pháp Hoa

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 03

(Phấm Thí Dụ, thứ ba)

Tội thay, này ông Trưởng giả

Ở trong nhà lửa mà chi

Các con của ông còn nhỏ

Làm sao hiểu biết được gì

Nhà lửa tam đồ bát nạn

Nhà lửa sinh tử tử sinh

Tan hợp hợp tan, thất tán

Biết đâu tìm lại bóng hình

Ngọn lửa vô thường đã cháy

Đốt tan vô thỉ đến giờ

Ngọn lửa vô thường đang cháy

Đốt tan cho đến vô chung

Sá gì nhà cao cửa rộng

Có chi của cải dư thừa

Một mai vô thường thăm viếng

Nổi chìm bong bóng giọt mưa

Này, ta có xe dê

Này, ta có xe hươu

Này, ta có xe trâu

Các con muốn xe nào

Ta cho con xe đó

Đây, là cổ xe nhỏ

Đây, là cổ xe trung

Đây, là cổ xe lớn

Xe nào cũng là xe

Ta cho con tất cả

Thoát ra căn nhà lửa

Thoát khỏi biển trầm mê

Từ nay có đường về

Ta đâu lo gì nữa

Phật thương chúng sanh như con nhỏ

Phật quý chúng sanh như trẻ thơ

Các con ơi, đừng có chần chờ

Hãy mau mau lên đường giác ngộ

Xe Tam Thừa thênh thang rộng mở

Các con ơi, ta chở con đi

Pháp Hoa Diệu Pháp huyền vi

Pháp Hoa Diệu Pháp từ bi độ đời.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 04

(Phẩm Tín Giải, thứ tư)

Ta là người cùng tử đi hoang

Đi lang thang trên những lối mòn

Đi lang thang không nhà không cửa

Sống lạc loài, gian khổ, héo hon

Ta là người cùng tử bơ vơ

Đi lang thang từ đó đến giờ

Không người thân, không cha không mẹ

Sống dại khờ như kẻ ngu ngơ

Ta là người cùng tử cô đơn

Đờn đứt dây, hỏi nữa chi đờn

Vọng không vang, không âm không tiếng

Sống trơ vơ quán trọ vô thường

Ta là người cùng tử phiêu du

Đi lang thang muôn kiếp mịt mù

Không có ai ba đường sáu nẻo

Hỡi đất trời, còn mấy thiên thu

Ta là người không có hôm qua

Không hôm nay, không những ngày mai

Không mái ấm nhà tranh bếp lửa

Hỏi cuộc đời, nào có chi ai

Ta là người không biết tuổi thơ

Không một ai từ đó đến giờ

Không anh em, không cha không mẹ

Sống một đời, một kiếp bơ vơ

Đâu ngờ nhà ta giàu có

Đâu ngờ trưởng giả cao sang

Đường đất lối mòn nho nhỏ

Bước ra con đường cái quan

Phải không, nhà xưa ta đó

Ô kìa, lối ngõ đi về

Mở mắt, nhìn ra cho rõ

Còn chi mong nữa ước thề

Thôi rồi, kiếp sống vơ bơ

Ta, trang công tử khôi ngô

Đẹp như sen vàng cao quý

Trổ bông, Diệu Pháp Liên Hoa

Thôi rồi, một kiếp không nhà

Hát lên ngàn vạn câu ca

Cung đàn hòa âm trổi khúc

Hát mừng Diệu Pháp Liên Hoa.

Tháng 11 – 2009

 

Trường Ca Pháp Hoa 05

(Phẩm Dược Thảo Dụ, thứ 5)

Ta là đấng Như Lai

Ứng cúng, Chánh biến tri

Minh hạnh túc, Thiện thệ

Thế gian giải, Vô thượng sĩ

Điệu ngự, Trượng phu

Thiên nhơn Sư, Phật Thế Tôn

Thân Phật là thân kim cương

Trí Phật là trí kim sắc

Lời Phật là lời chân lý

Nói ra từ miệng vàng

Như pháp vũ mưa ngàn

Thấm nhuần cây lớn nhỏ

Như vầng trăng sáng tỏa

Chiếu rọi khắp trần gian

Như vầng thái dương lên

Trải nắng vàng tươi đẹp

Tung ra khung cửa hẹp

Rộng khắp chốn hải hồ

Dù đồng ruộng, sông khô

Hay núi rừng biển cả

Không sang giàu nghèo khó

Không học vị thấp hèn

Khi đuốc tuệ soi đèn

Đều nhờ ơn tế độ

Tri Kiến Phật là thế

Pháp Hoa Hội hiển bày

Từ quá khứ đến nay

Tới ngàn sau không đổi

Nam Mô Pháp Hoa Hội

Nam Mô Pháp Hoa Hội

Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát.

Tháng 11 – 2009 

 

Trường Ca Pháp Hoa 06

(Phẩm Thọ Ký, thứ 6)

Hạnh phúc thay, Ngài Ma Ha Ca Diếp

Diễm phúc thay, Bồ tát Mục Kiền Liên

Cao thượng thay, Ngài đại Ca Chiên Diên

Cao quý thay, Tu Bồ Đề tôn giả

Chính Đức Phật đã tuyên dương thọ ký

Vô lượng kiếp sau, giác hạnh viên toàn

Công đức lợi tha bảo mãn vuông tròn

Phật Pháp, chân như, tràn đầy chơn thể

Đâu đầu nguồn vô thỉ

Đâu tận đáy vô chung

Soi biển tuệ vô cùng

Chiếu mười phương ba cõi

Đâu tam đồ bát nạn

Đâu sáu nẻo luân hồi

Nhất tâm, chỉ một thôi

Dứt hằng sa pháp giới

Chắp tay đảnh lễ Ngài Mục Liên, Ca Diếp

Chắp tay xưng tán Ngài Chiên Diên, Bồ Đề

Tất cả chúng sanh, từ nay đã có đường về

Căn nhà xưa đã từ lâu bỏ ngõ

Đấng Cha Lành đang đợi chờ ta đó

Một đàn con, trầm biển đục đi hoang

Nhưng trong lòng vẫn ẩn hiện dấu son

Khơi bấc lửa ngọn đèn tâm bừng sáng

Vượt núi cả, đèo cao, ghềnh láng

Vượt sông mê, bến hẹn, kinh cầu

Đêm đêm về, xin thắp ánh hỏa châu

Dâng trước thềm, đền ơn Vô Thượng Giác.

Tháng 11 – 2009 

Trường Ca Pháp Hoa 07

(Phẩm Hóa Thành Dụ, thứ 7)

Mau lên sắp đến Hóa Thành

Mười sáu Vương Tử an lành Pháp vương

Mỗi vị Hóa Phật một phương

Trăm nơi, ngàn cõi, vạn đường độ sinh

Soi gương, ngỡ bóng là mình

Lìa gương, tìm bóng hỏi mình là ai

Sao Hôm chờ đợi Sao Mai

Màn đêm biến mất phơi đài xa xôi

Thương không con lạc đà

Giữa sa mạc trụt trồi

Thẫn thờ đi đi mãi

Về cuối nẻo chân trời

Chừng như lá đâm chồi

Đồng xanh non ngọn cỏ

Đang đợi chờ ngươi đó

Lạc đà mỏi mòn trông

Hễ có biển, phải có sông

Hễ có núi, phải có đồi

Thẫn thờ bên bờ suối

Ngơ ngẩn con nai vàng

Hóa Thành, Thành Hóa mộng mơ

Khi đi đến đó, ai ngờ thế đâu

Hóa Thành, sao lại tìm cầu

Còn kia Bảo Sở, bảo châu liên đài

Sáng rồi, sao đợi ban mai

Hỏi thêm tiếng nữa, khện vài hèo nghe

Sáng rồi, sao đợi ban mai

Hỏi thêm tiếng nữa, khện vài hèo nghe !

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 08

(Phẩm Ngũ bá Đệ tử Thọ Ký, thứ 8)

Hóa Thành Dụ, trông ly kỳ thế ấy

Khi đến nơi, đom đóm giữa hư không

Khi có mưa, bong bóng nước lông bông

Cơn mưa tạnh, tìm đâu bong bóng nữa

Từ Hóa Thành, nhận chân ra Bảo Sở

Năm trăm vị La Hán mỉm miệng cười

Khi Đức Phật đưa lên cánh hoa tươi

Ngài Ca Diếp nở trên môi hàm tiếu

Biển tuệ Phật, dùng trí làm sao hiểu

Rùa không lông, soi rọi kính hiển vi

Thỏ không sừng, mờ mắt mãi tìm đi

Như người mù rờ voi đâu có khác

Con dã tràng se mình trên bờ cát

Cả cuộc đời lầm lũi kiếp không nhà

Sớm ban mai như trải thảm sương sa

Nắng lên cao treo đầu cây ngọn cỏ

A La Hán đã nhận chân từ đó

Phật bản hoài thọ ký Tánh Như Lai

Từ Hóa Thành, kết Bảo Sở phương đài

Vi vi diệu Đấng Pháp Vương Vô Thượng

Đầu nguồn không vướng

Cuối ngọn không vương

Ngộ lý chơn thường

Nhờ ơn Pháp Hội

Pháp Hoa diệu vợi

Linh Sơn tuyệt kỳ

Đạo lý huyền vi

Ngàn năm soi sáng.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 09

(Thọ học, Vô học Nhơn Ký, thứ 9)

« Tu, mà không học là tu mù

Học, mà không tu chính là đãy sách »

« Y kinh giải nghĩa, Tam Thế Phật oan

Lìa kinh nhất tự, tức thành ma thuyết »

Học mà vô học, tức không còn gì học nữa

Học mà có học, học mãi sẽ không xong

Như vòng tròn, mà còn vẽ cong cong

Sẽ không thấy vòng tròn nằm đâu cả

Vòng tròn kín, cần chi mà vẽ nữa

Ai vẽ lên, chẳng khác đem ra đồ

Hãy nhìn kia, có một cánh hoa khô

Chất tươi đâu, mà hé cười chớm nở

Tự nhiên, hương hữu xạ

Vô xạ, tìm đâu hương

Dù phết phấn thoa son

Phập phù bay trước gió

Khi đã về trước ngõ

Sao lại hỏi tìm nhà

Còn xuôi ngược đường xa

Biết nơi nào sẽ đến

Hàng Vô Học, đều dự vào Bậc Thánh

Hàng Hữu Học, còn đứng ngoài cửa thôi

Khách lãng du, thêm hàng giậu hàng rào

Cũng chỉ bởi đèn tâm chưa tỏ ngộ

Khổ gì khổ, bởi trầm luân trong đó

Thoát ra rồi, cái khổ đâu đưa xem

Bức màn che, một khi kéo khỏi thềm

Bừng mắt tuệ trùm trời cao biển rộng.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 10

(Phẩm Pháp Sư, thứ 10)

Pháp Sư khi nói pháp

Phải vào nhà Như Lai

Mặc chiếc áo Như Lai

Ngồi pháp tọa Như Lai

Nhà Như Lai, là đức từ bi

Áo Như Lai, là áo nhẫn nhục

Tòa Như Lai, là vô vị vô cầu

Tri kiến Phật, biển tuệ thâm sâu

Đâu phải đèn dầu, hay đom đóm nhỏ

Anh muốn có Phật tuệ

Chị muốn thấy Phật thân

Em muốn đón Phật thừa

Nhờ Pháp Hoa Hải Hội

Đỉnh Linh Sơn, diệu âm vượt ba cõi

Núi Linh Thứu, Pháp Phật vượt phương ngàn

Mỗi chúng sanh, đều là Phật sẽ thành

Bởi đều có thường chơn, chân thật tánh

Pháp Hoa, ai nói ra một tiếng

Pháp Hoa, ai lắng nghe một câu

Như dòng sông bắc nhịp cầu kiều

Đi đi khắp trường giang đại hải

Đầu ghềnh quan ải

Cuối ngõ thênh thang

Gieo rắt đạo vàng

Đài sen thơm ngát

Thần tiên cỡi hạc

Tứ Thánh đường về

Một bước Tào Khê

Hoa Nghiêm pháp giới.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 11

(Phẩm Hiện Bảo Tháp, thứ 11)

Phật Đa Bảo, đã nhập Niết bàn vô lượng kiếp

Nghe Pháp Hoa, Ngài cũng hiện Pháp thân

Bảo Tháp kia, phương tiện nói, ân cần

Pháp thân Phật, vốn bất sanh bất diệt

Phật pháp thân, luôn thường hằng chân thật

Thể như thế, tánh như thế, biết không

Tướng như thế, dụng như thế tương đồng

Ta ca hát trên dòng sông bất nhị

Bên nầy sông, thuyền ai chờ ai đợi

Bên kia sông, bến cũ đợi con đò

Khách lên thuyền, xin cứ bước lên cho

Ta đưa khách đi về sông bến cũ

Xin đảnh lễ Đấng Cha Lành Điều Ngự

Xin chân thành xưng tán Đức Pháp vương

Chúng con đi trên con thuyền thanh lương

Thuyền bát nhã, đưa người qua biển khổ

Phật Đa Bảo, nhường nửa tòa pháp tọa

Cùng nhau ngồi, Đức Giáo chủ Thích Ca

Hai Đức Thế Tôn, chung một mái nhà

Vô lượng vô biên, hằng sa Thánh Chúng

Hiện bảo tháp, là pháp thân bất diệt

Hiện pháp tòa, là thần lực Như Lai

Nói pháp âm, là Pháp Phật không hai

Độ độ tận chúng sanh, nhập Tỳ Lô Tánh Hải.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 12

(Phẩm Đề Bà Đạt Đa, thứ 12)

Đề Bà Đạt Đa, với Thích Ca tuy hai mà một

Thích Ca với Đề Bà Đạt Đa, tuy một mà hai

Kiếp này, có mặt trong đời

Thật ra, đã có muôn đời kiếp xưa

Nói một, chưa trọn biết chưa

Bảo hai, chưa vẹn, rằng thừa đó nghe

Còn kia, Long Nữ nữa hè

Hiện ra chân thật, rằng e quá chừng

Bởi không biết thì đừng có hỏi

Khi biết rồi, còn hỏi nữa chi

Nói sao, nghe lạ rứa hì

Biết không không biết, cái gì biết không

Trong cái dị, có cái đồng, ai biết

Trong cái đồng, có cái dị, ai hay

Nghe không tiếng vỗ bàn tay

Không còn vỗ nữa bàn tay vẫn còn

Mở ra thêm một triện son

Tặng thêm dấu ấn tròn vuông vuông tròn

Đề Bà lên núi tìm non

Thích Ca đứng đợi bên hòn Tào Khê

Đưa thêm Long Nữ trở về

Chúng sanh Phật tánh đề huề Như Lai.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 13

(Phẩm Trì, thứ 13)

Kiều Đàm, Dì mẫu thuở xa xưa

Khi Phật sinh ra, sao thế hè

Hoàng hậu Ma Gia đà khuất bóng

Bà thay thế Mẹ, nuôi con thơ

Gia Du « thiếu phụ » nữa thì sao

Nguyệt lão se tơ khá vụng (về) nào

Thế tử La Hầu vừa có mặt

Đạt Đa đêm tối bỏ hoàng trào

Trần thế phiêu du đâu phải nhà

Vua Cha Tịnh Phạn lại băng hà

Phật về hầu lễ lo tang chế

Rồi Phật cũng đi chẳng xót xa

Thái tử Hầu La cũng xuất gia

Thời gian thấm thoát mộng can qua

Vô thường quán trọ còn chi nữa

Xuất giá xuất gia, xuất thế à

Đàm Di phát nguyện xin đi tu

Phật chẳng nói năng chẳng ậm ừ

Thấy vậy A Nan lòng trắc ẩn

Ba lần thưa thỉnh, Phật im ru

Kiều Đàm hòa nước mắt Gia Du

Phật cảm thương như chiếc lá thu

Ni giới  nay cho hòa đại chúng

Đạo mầu nhiệm thể với thiên thu

Nói thêm chút nữa kẻo sanh nghi

Phật với Gia Du chẳng vết tì

Nguyện ước cùng sanh cùng tế độ

Chứ không oan trái nợ thê nhi

Xuất gia xuất thế khó khôn lường

Cắt ái từ thân, cắt tóc luôn

Cắt cả tam đồ và bát nạn

Con thuyền bát nhã thật thanh lương

Đến khi thọ ký, ngóng trông lòng

Long Nữ qua cầu, mình sẽ xong

Phật tánh Phật tâm, tri kiến Phật

Trời xanh mây trắng mãi thong dong

Đức Phật tuyên dương nói một lời

Kiều Đàm, Dì mẫu của ta ơi

Gia Du, Ni trưởng kia cũng thế

Thọ ký cùng nhau ráng cứu đời

Ca hát vạn lời Đức Thích Ca

Đạo mầu chân thật, chính là nhà

Đường về đã biết còn tay chỉ

Ni giới hành trì đẹp thế a.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 14

(Phẩm An Lạc Hạnh, thứ 14)

Người tu, giới luật tinh nghiêm

Trần sa biến mất, não phiền tiêu tan

Hiểu thông sự lý rõ ràng

Trùng trùng duyên khởi trên đàng ta đi

Thượng hoằng Phật Đạo vô nghì

Hạ hoằng pháp giới từ bi độ đời

“Nơi nào cần chúng ta đến

Nơi nào gọi chúng ta đi

Không quản gian nguy

Không màng khó nhọc”

Dù phải trải đến muôn ngàn gian khổ

Dù hát câu băng vạn lý qua đèo

Đi qua tận cuối xóm nghèo

Đi về tận chốn vùng sâu mưa rừng

Đi qua thôn dã ruộng đồng

Đi về vùng thấp mặn nồng phèn chua

Không vì thành thị gió lùa

Bèo tan mấy độ, bọt xua mấy thời

Đầm lầy nước đọng lở bồi

Sen vàng từ đó đâm chồi trổ bông

Bùn theo nước đổ trôi sông

Gần bùn mà chẳng chút trông mùi bùn

Nơi nào cần chúng ta đến

Nơi nào gọi chúng ta đi

Đó là đạo huyền vi

Đó là đời phụng sự

Không ngã nhân bỉ thử

Bình đẳng tánh Như Lai

Hoa sen kết liên đài

Bảo Thành Vô Thượng Giác.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 15

(Phẩm Tùng Địa Dõng Xuất, thứ 15)

Kinh Pháp Hoa, là vua của các kinh

Lý Pháp Hoa, là vua của các Pháp

Nên hằng hà sa số Chư Bồ Tát

Khắp mười phương vân tập xin hộ trì

Đức Như Lai, vốn vô lượng từ bi

Thiện nam tử, các ông lo chi rứa

Cõi Ta Bà, ba ngàn thế giới tùng địa

Đất nứt ra, Chư Bồ Tát hóa thân

Kéo nhau trùng trùng, điệp điệp thênh thang

Dùng Phật Nhãn, không làm sao kể xiết

Vô Sư Trí, Vô Sư Trí, diễm tuyệt

Hữu Sư Trí, Hữu Sư Trí, kẹt rồi

Chư Bồ Tát từ phương xa

Không sao thốt nên lời

Chư Bồ Tát cõi Ta Bà

Ấn tâm, ấn tâm địa

Bảo rằng có, kiếm một người không có

Bảo rằng không, pháp giới vốn rỗng không

« Nhìn xem bóng nguyệt dòng sông

Nào hay có có không không là gì »

Nhìn xem vũ trụ li ti

Nhét trong hạt cải, chưa vì là sao

Nhìn xem vũ trụ thấp cao

Chân lông chui tọt, thế nào mà chi

Lành thay Ta Bà Tùng Địa

Lành thay Bồ Tát dũng xuất

Pháp Hoa, diệu pháp bậc nhất

Pháp Hoa, diệu pháp vô nghì

Vô chung vô thỉ mất đi

Nụ hoa hàm tiếu từ bi hiển bày

Hoa Đàm một đóa trên tay

Thong dong tự tại tháng ngày tiêu dao

Cao hơn núi cả Diệu Cao

A Tỳ đâu thấp, ai nào biết chưa ?

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 16

(Phẩm Như Lai Thọ Lượng, thứ 16)

Như Lai Thọ Lượng không cùng

Vô thỉ biến mất, vô chung vẫn còn

Như Lai Thọ Lượng càn khôn

Bao trùm vũ trụ chưa lờn hằng sa

Số nhân, số cộng thua xa

Lũy thừa, cấp số những là thấm sâu

Như Lai Thọ Lượng nhiệm mầu

Ba ngàn thế giới trên đầu chân lông

Như Lai Thọ Lượng vô cùng

Lông rùa sừng thỏ nhét trong mộng đào

Vượt qua đối đãi chiêm bao

Kìa xem trước mặt cây đào trổ bông

Vượt qua vĩ tuyến chắn đường

Xuyên qua kinh tuyến chơn thường trinh nguyên

Vốn không có một con thuyền

Vào ra bốn biển con thuyền tinh anh

Kìa xem chiếc lá lìa cành

Lá non non lá, cây xanh xanh rừng

Kìa xem những cánh đồng vàng

Mạ non non mạ, lúa vàng vàng ươm

Như Lai Thọ Lượng khôn lường

Như Lai Thọ Lượng khôn lường Như Lai.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 17

(Phẩm Phân Biệt Công Đức, thứ 17)

Này A Dật Đa, hãy nghe ta nói

Người trì Kinh Pháp Hoa công đức vô lường

Là pháp vô lậu, trùm khắp mười phương

Còn pháp hữu lậu, vào ra ba cõi

Ví có Trưởng giả, đem bạc vàng châu báu

Ví có đại gia, đem hiến cả của tiền

Công đức kia, chỉ hưởng được nhơn thiên

Không thể sánh, người nhập Tri kiến Phật

Kinh Pháp Hoa, lại là Kinh bậc nhất

Trì Kinh Pháp Hoa, là trì huệ mạng Như Lai

Thông quá khứ, xuyên hiện tại, suốt tương lai

Đèn giải thoát soi mười phương thế giới

Người trì Kinh Pháp Hoa, công đức bậc nhất

Phật Pháp Thân mầu nhiệm, không giảm không tăng

Không lớn không nhỏ, không đục không trong

Không những gì của trần gian so sánh được

Người trì Kinh Pháp Hoa, công đức tuyệt thế

Là kiến lập đạo tràng ba cõi sáu đường

Là pháp âm bất tuyệt trăm hướng ngàn phương

Hạt giống Bồ Đề lưu truyền không chấm dứt

Núi Tu Di, cao nhất trong các núi

Kinh Pháp Hoa, vi diệu nhất trong các kinh

Không cần bóng, cũng đã thấy được hình

Không cần gương, chiếu rạng ngời chơn thể

Chư Thiên nghe, trong lòng vui không tả

Đem hoa trời rải cúng khắp trần gian

Đem nhạc trời hòa điệu khắp ba ngàn

Xin cúng dường Thế Tôn Vô Thượng Giác

Bảy chúng đệ tử, hết rồi mùa hạ

Không mùa thu, cũng chẳng có mùa đông

Sống Lạc Bang, cần chi nữa Mùa Xuân

Tâm thánh thoát an bình Vi Diệu Pháp.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 18

(Phẩm Tùy Hỷ Công Đức, thứ 18)

Phẩm Tùy hỷ Công Đức

Thật thù thắng không lường

Pháp Hoa Diệu Pháp Vương

Bất thuyết, bất khả thuyết

Phẩm Tùy Hỷ siêu tuyệt

Thật bất khả tư nghì

Một niệm hỷ, tùy nghi

Bao trùm lên tất cả

Người nghe lần thứ nhất

Đến người thứ năm mươi

Cho đến vạn mười mươi

Công đức kia vẫn thế

Xanh non mầm lá mạ

Vàng ươm cánh đồng vàng

Thanh thoát ánh trăng ngàn

Trăng thanh trăng mười sáu

Không còn kia bờ giậu

Không còn nọ hàng rào

Lay động cả trăng sao

Rung ngân hà xao xuyến

Anh, tùy hỷ một tiếng

Chị, tùy hỷ một lời

Em, nhoẻn miệng mỉm cười

Gắn Pháp Hoa hàm tiếu

Em, người em nhỏ xíu

Chị, người chị lớn khôn

Anh, ngựa lý chân bon

Tôi, hát ca đồng nội

Đều nhờ ơn Pháp gội

Đều tắm pháp mưa nhuần

Nhẹ như tiếng chuông ngân

Rong thuyền du Diệu Pháp.

Tháng 11 – 2009

 

Trường Ca Pháp Hoa 19

(Phẩm Pháp Sư Công Đức, thứ 19)

Này, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, hãy lắng nghe

Nay, nhân duyên hội đủ, ta nói thật nè

Nói hôm nay, sẽ không thêm một lần nói nữa

Các chúng đệ tử con ơi, nghe cho rõ

Nghe, để rồi thọ trì, giảng giải thâm sâu

Và truyền lưu đến tận ngàn sau

Không suy suyển, không dễ duôi, mai một

Các con hãy thọ trì cho nghiêm mật

Nói, nghe, giảng dạy, truyền tụng Pháp Hoa

Còn hơn xây đến chín đợt phù đồ

Bởi lục căn, tinh thông xuyên pháp giới

Mắt thanh tịnh, thấy những gì không thể thấy

Tai thanh tịnh, nghe những gì không thể nghe

Mũi thanh tịnh, ngửi những gì gì không thể ngửi

Miệng thanh tịnh, nói một lời rúng động thiên thu

Thân thanh tịnh, ba ngàn thế giới trống rỗng

Ý thanh tịnh, hiểu rõ vạn pháp nhân duyên

Trì Pháp Hoa, sẽ không cần phi thuyền

Xuyên vũ trụ, trong sát na hơi thở

Khi đã gọi, là Pháp Sư Công Đức

Bởi thâm sâu uyên áo Kinh Pháp Hoa

Như Sen vàng, đỏ, trắng, xanh, kết đại Liên Tòa

Tam Thế Phật hiện pháp thân thường trụ

Gom pháp giới, vo tròn trong một chữ

Gom vũ trụ, nhẹ hững trên bàn tay

Các con ơi, cần chi nữa ban ngày

Vì không còn hoàng hôn và đêm tối.

Tháng 11 – 2009

 

Trường Ca Pháp Hoa 20

(Phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát, thứ 20)

Thường Bất Khinh Bồ Tát, lạ kỳ thay

Gặp ai ai, cũng chắp tay xá dài

Tôi không dám khinh quý ngài

Vì quý ngài mai sau sẽ thành Phật

Thường Bất Khinh Bồ Tát, kỳ dị thay

Thân như cùng tử, không có đêm ngày

Nhưng gặp ai, cũng xưng dương đảnh lễ

Không dám khinh quý ngài, vì mai sau thành Phật

Thời cận đại, có Tế Điên Hòa Thượng

Đóng phim, lên ảnh, báo chí, truyền hình

Nam nữ lão ấu chăm chú nghe xem

Và ca tụng Phật Tế Công bất tuyệt

Thường Bất Khinh siêu nhiên hơn ai biết

Chính là tiền thân của Đức Phật Thích Ca

Vô lượng kiếp cúng dường diệu lý Phật Đà

Mang diệu hạnh: vô tâm, vô tướng, vô tác

Tôi không dám khinh quý ngài, như nốt nhạc

Nhạc du dương không cần khảy cung đàn

Không nhạc sĩ ca sĩ, vẫn nghe tiếng vang vang

Mọi giai điệu tuyệt vời, như xuất thần nhập thánh

Thường Bất Khinh an trụ tâm diệu tánh

Nhập Tỳ Lô Tánh Hải, hát Huyền Môn

Hoa Nhgiêm ngân, trùng trùng Hoa Tạng khắc son

Hoa pháp giới trùng trùng hòa vang trong diệu hữu

Thường Bất Khinh, chúng con xin nương tựa

Xin noi gương, đức độ nhủ thanh lương

Mỗi chúng sanh, có Phật tánh, tinh tường

Cùng trân trọng sen vàng, chưa chớm nở.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 21

(Phẩm Như Lai Thần Lực, thứ 21)

Phật Pháp Thân, thường hằng, siêu sinh diệt

Thân Pháp Phật, thường hằng, siêu diệt sinh

Tinh anh, tinh thể, tinh chất, nguyên trinh

Thần Lực Như Lai, bất khả, bất thuyết

Lực Như Lai, phi thuyền kia xa tít

Thần Như Lai, điện ảnh kia phai mờ

Như người mẹ, trên tay, bồng đứa con thơ

Như người cha dắt dìu đàn con bé nhỏ

Không hiển vi, , hiển mật, kính siêu, kính lúp

Không vi âm, vi tính, mạng nhện, tinh kỳ

Thần Lực Như Lai, bất khả tư nghì

Vượt thời gian, băng không gian, bao trùm vũ trụ

Dùng thần lực, gom chúng sanh,

không đầy căn nhà nhỏ

Siêu thần lực, đưa chúng sanh,

vượt tam thế mười phương

Tỏa thần lực, đưa chúng sanh đi,

không vướng ngọn cỏ đầu sương

Phóng thần lực, đưa chúng sanh về,

căn nhà xưa vẫn còn nguyên vẹn

Ta vẫn còn đây, bên dòng Sông Trẹm

Ta vẫn còn đây, bến cũ Hương Giang

Em đứng kia chi, cửa ngõ Nam Quan

Anh đợi đây chi, Cà Mau cuối Mũi

Khách tha phương, như con thuyền viễn xứ

Bến đò ngang, ta đón khách đưa về

Quán trọ ngàn năm, nhân thế đê mê

Các con hỡi, mau mau về Ta đợi

Thần Lực Như Lai, vô thỉ, chưa từng khởi

Như Lai Thần Lực, vô chung, đóng cửa rồi

Siêu âm thanh chưa kịp phát ra lời

Đức Như Lai đã bặt thinh biến mất

Đó, mới gọi là Như Lai Thần Lực

Đó, mới gọi là Thần Lực Như Lai

Không có một, mà cũng không có hai

Siêu siêu thế, tột cùng, siêu siêu thế.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 22

(Phẩm Chúc Lụy, thứ 22)

Gia tài Chư Phật xưa nay

Thế Tôn ân đức sâu dày

Tận tường khuyên răn chỉ bảo

Khai, thị, ngộ, nhập, đẹp thay

Mười phương Chư Phật bản hoài

Thương như con nhỏ trên tay

Nâng niu, chắt chiu, gìn giữ

Hôm nay đến tận ngày mai

Thích Ca, Đa Bảo chung tòa

Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa

Mười phương Thánh Tăng câu hội

Nhơn Thiên, Tứ Chúng đều nhờ

Các con muốn báo Phật Ân

Pháp Hoa trì tụng chuyên cần

Lục độ hóa duyên vạn hạnh

Chúng sanh vui sống an lành

Thân Phật là thân kim cương

Pháp Phật là pháp kim tương

Trí Phật là trí kim sắc

Thì Đạo Phật là Đạo Vàng

Dù cho đổi cả trần gian

Dù cho đổi cả bạc vàng

Không tìm đâu ra châu báu

Cho bằng Diệu Pháp ngân vang

Dù cho đổi cả gia tài

Dù cho đổi cả thiên thai

Không tìm đâu ra châu báu

Cho bằng Diệu Pháp hôm nay

Người đời di chúc thế gian

Đức Phật di chúc Đạo Vàng

Thế gian vô thường biến đổi

Đạo Vàng rực rỡ mênh mang.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 23

(Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự, thứ 23)

Dược Vương cúng Phật ra làm sao

Xin kể cho nghe chút, thử nào

Ứng dụng được gì trong hiện tại

Truyền lưu hậu thế những mai sau

Bồ Tát Dược Vương thật tuyệt vời

Từ thời quá khứ rất xa xôi

Thời Ngài Nhật Nguyệt Phật, Minh Đức

Theo Phật, chuyên tu khổ hạnh thôi

Kinh qua một muôn hai nghìn năm

Hiện Nhứt Thiết, Tam Muội Sắc Thân

Chiếu sáng mười phương, ngàn thế giới

Có chi nguyệt khuyết với trăng rằm

Nhập Tam Muội pháp cúng hương hoa

Hải ngạn, Chiên đàn, Mạn đà la

Vô số hương hoa cùng rải xuống

Cúng dường Đức Phật, Diệu Liên Hoa

Ngài bèn phát nguyện cúng cao hơn

Dùng lửa đốt thân để thế đèn

Lửa cháy hơn nghìn năm, chẳng tắt

Cháy rồi lại tiếp tục, nguyên sanh

Chỉ cần phát nguyện đốt chân tay

Tài vật ngoài thân đã tiếc thay

Hạnh nguyện của Ngài bất khả thuyết

Bất tri, bất khả, bất tư nghì

Đệ tử chúng con nghe Phẩm này

Biết thương biết quý thật lành thay

Sống đời phụng sự đền ơn Phật

Diện mục xưa nay sẽ hiển bày

Tôn thờ, gìn giữ Pháp Hoa Kinh

Nguyên vẹn tinh anh bóng với hình

Bất luận ma cường hay pháp nhược

Pháp Hoa vi diệu thật chơn kinh

Một hoa đan kết đến ngàn hoa

Sắc sắc không không tỏa sáng lòa

Vũ trụ ngân hà xuyên thế giới

Muôn phương ngàn hướng ngát Liên Hoa

Chúng con xin chắp đôi bàn tay

Hàng vạn vạn người nối vạn tay

Hàng triệu triệu người nhìn triệu mắt

Đâu còn quá-hiện với tương lai

(Dung thông quá khứ hiện tại tương lai)

Từ nghe, quá khứ Phật Tỳ Bà

Hiện tại, Trung tôn Đức Thích Ca

Linh Thứu viên dung Long Hoa Hội

Đương Lai Di Lặc hiện không xa

Bổn Sự Dược Vương Phẩm, tuyệt vời

Linh Sơn núi tuyết, trắng chưa vơi

Phật ân đại hải kia, chưa cạn

Nhất nhất tuyên xưng, bất thối lời.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 24

(Phẩm Diệu Âm Bồ Tát, thứ 24)

Rằng xưa, Bồ Tát Diệu Âm

Ở tận thế giới Trang Nghiêm

Của Đức Tú Vương Trí Phật

Viếng thăm Phật Tổ Cù Đàm

Ngài mang vô số hoa sen

Cọng làm Vàng Diêm phù đàn

Cánh hoa kết tinh bằng Bạc

Nhụy, đài: Ca bảo, Kim cương

Văn Thù ba vòng nhiểu Phật

Nhân, se, sao có duyên này

Phật rằng, Diệu Âm Bồ Tát

Cúng dường nghe Hội Pháp Hoa

Nhạc trời trổi khúc ngân vang

Tiễn đưa Bồ Tát lên đàng

Không âm, mà ngân ngân tiếng

Không lời, mà vọng vang vang

Diệu Âm diện mạo đoan trang

Dù cho góp nhặt trăng ngàn

Trăng rằm thêm trăng mười sáu

Cọng chung không thể sánh bằng

Diệu Âm thân sắc vàng ròng

Trong, không còn chỗ để trong

Sáng, không còn chỗ để sáng

Công đức trang nghiêm châu toàn

Rằng xưa, Bồ Tát Diệu Âm

Chúng con những ước mong thầm

Học hạnh trau dồi công đức

Học tu Diệu Pháp thậm thâm

Rằng xưa, Bồ Tát Diệu Âm

Nguyệt thẹn hoa khôi chị Hằng

Cá lặn, chim sa, nhân thế

Diệu Âm đẹp quá vô ngần

Rằng xưa, Bồ Tát Diệu Âm

Sao kia lấp lánh vì trăng

Phương trời chim bay mỏi cánh

Ngại chi, Ô Thước - sông Ngân

Rằng xưa, Bồ Tát Diệu Âm

Thế gian ước vọng thương thầm

Sắt thép vàng lên cát đá

Tu đi, sẽ được Diệu Âm.

Tháng 11 – 2009

 

Trường Ca Pháp Hoa 25

(Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát, thứ 25)

Tai nghe Bồ Tát Quán Âm

Tầm thinh cứu khổ thế gian độ đời

Ngàn tay ngàn mắt nơi nơi

Quán Âm thị hiện cứu người khổ đau

Đi qua trên bước cầu kiều

Đi về hố thẳm, khẳng khiu núi đèo

Đi qua ghềnh láng cheo leo

Đi về đồng nội eo sèo móc mưa

Quán Âm cứu khổ chưa vừa

Bởi người nhân thế vốn thừa trầm kha

Nên đi khắp cõi ta bà

Vô thường quán trọ của nhà trần gian

Lắng nghe hết tiếng bẽ bàng

Lắng nghe hết tiếng khóc vang dậy trời

Quán Âm không nói một lời

Không than một tiếng không rời một phen

Chìm trong vũng nhớ, chưa quên

Khuất trong vũng tối, ánh đèn trên tay

Không năm không tháng không ngày

Không giờ không khắc không giây nào sờn

Quán Âm, nước chảy không mòn

Sao dời vật đổi sắt son tinh kỳ

Quán Âm, hiện đức từ bi

Chỉ còn bất khả tư nghì mà thôi

Nụ cười, gắn sẵn trên môi

Cam lồ, gắn sẵn cứu đời, cành dương

Tai nghe trăm hướng ngàn phương

Hóa thân thị hiện vạn đường nhiêu khê

Rằng, con chưa biết đường về

Rằng, con biển khổ trầm mê não phiền

Rằng, con nguyệt lão vụng duyên

Oan gia túc trái tiền khiên đọa đày

Rằng, con bất hạnh không may

Hôm nay chẳng có, ngày mai là gì

Quán Âm hiện đức từ bi

Cành dương vẫy nhẹ có chi ngại ngùng

Dù cho vô thỉ vô chung

Quán Âm cứu khổ tới cùng, chưa thôi

Quán Âm Thị Kính tuyệt vời

Quán Âm Nam Hải vớt người trùng khơi

Quán Âm thị hiện nơi nơi

Cứu cho hết khổ cuộc đời nhân gian.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 26

(Phẩm Đà La Ni, thứ 26)

Đà La Ni là thần lực gia trì

Là thần chú

Là lực chú

Là đại bi chú

Là vô thượng chú

Vô thượng, đẳng đẳng chú

Của mười phương Chư Phật

Của mười phương Chư Đại giác Thế Tôn

Của Chư Bồ Tát hạnh nguyện viên dung

Của các bậc Thiên Vương, La Sát

Bởi kinh điển của ba đời mười phương Chư Phật

Là Pháp Thân Chư Phật thường trụ nhiệm mầu

Ý cao siêu, nghĩa lý thâm sâu

Chứa đựng khắp trong ba rừng kinh tạng

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Là bản nguyện bản hoài sâu nặng

Trí vô biên mà huệ cũng vô biên

Đức vô biên mà phước cũng vô biên

Khai thị ngộ nhập, dung nhiếp châu viên

Cho cửu hữu, huyền môn, đồng đăng Hoa Tạng

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Là Bí mật của Chư Phật, trùng tuyên

Phật quá khứ đã tuyên

Phật hiện tại đang tuyên

Phật vị lai sẽ tuyên

Không giảm không tăng, không thêm không bớt

Không ít không nhiều, không cao không thấp

Trì một chữ, nhập Tỳ Lô

Tụng một chữ, nhập Tỳ Lô Giá Na

Nói một chữ, nhập pháp giới hằng sa

Giảng một chữ, trùm thiên la địa võng

Trí, cao hơn núi

Huệ, cao hơn núi

Đức, sâu hơn biển

Phước, sâu hơn sông

Một chữ Pháp Hoa, vũ trụ kia trống rỗng

Một từ Pháp Hoa, pháp giới kia trống không

Nên Chư Phật dùng thần lực gia trì

Chư Cổ Đức dùng thần lực gia trì

Chư Đại Thánh phát hoằng thệ nguyện

Cho chúng sanh tụng niệm

Cho chúng sanh hành trì

Tu, và cứ tu đi

Ngộ Tri Kiến Phật

Nhập Tri Kiến Phật

Nam Mô Pháp Hoa Đà La Ni phẩm

Nam Mô Pháp Hoa Đà La Ni phẩm.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 27

(Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương bổn sự, thứ 27)

Rằng, thời Đức Phật Vân Lôi Âm 

Vua Diệu Trang Nghiêm có hai người con

Tịnh Tạng tu tập miên mật châu toàn

Tịnh Nhãn tinh chuyên nhập môn tam muội

Một ngày kia, về hoàng cung thưa mẹ

Xin mẹ cúng dường Phật Tú Vương Hoa

Tịnh Đức bảo con, hãy đến phủ dụ Cha

Kẻo Cha con lạc lối vào đường tà tội nghiệp

Vì mẫu hậu, vì phụ hoàng, công đức sinh thành dưỡng dục

Hiếu nghĩa sao, trọn hiếu nghĩa cho bằng

Đưa mẹ cha bước vào ngưỡng cửa thiền môn

Cửa giải thoát, cửa từ bi, thánh thiện

Hai anh em dùng thần thông biến chuyển

Bay trên không, vào trong nước, biến hóa thân

Vua cha trông, lòng sung sướng vô ngần

Kéo tất cả cùng triều thần, hân hoan về hầu Phật

Rằng xưa, có chuyện phi thường

Anh xuất gia, nhập pháp vương

Em xuất gia, nhập pháp vương

Phụ hoàng, Mẫu hậu, nhập pháp vương

Hoàng thân, quốc thích, nhập pháp vương

Rằng xưa, có chuyện phi thường

Vua nhờ con, thành Phật hiệu Thọ Vương

Mẹ nhờ con, nhập thánh đức không lường

Khắp Thần dân, nhập tam muội thanh lương

Cha còn nói, chính con là đại thiện tri thức

Rằng xưa, có chuyện phi thường

Đức Thích Ca hỏi đại chúng nghĩ sao

Vua Diệu Trang Nghiêm Vương là ai

Tịnh Đức phu nhân là ai

Hai người con đó là ai

Rằng xưa, có chuyện phi thường

Đức Thích Ca nhìn đại chúng mà rằng

Diệu Trang là Hoa Đức Bồ Tát

Tịnh Đức là Quang Chiếu Bồ Tát

Đang đứng trước ta, từng thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Rằng xưa, có chuyện phi thường

Rằng xưa cũng thật là xưa

Tịnh Tạng, chính là Dược Vương Bồ Tát

Tịnh Nhãn, chính là Dược Thượng Bồ Tát

Đã ở chỗ trăm ngàn muôn ức Cổ Phật, thọ trì Kinh Pháp Hoa

Rằng xưa, có chuyện phi thường

Rằng xưa cũng thật là nay

Dược Vương, Dược Thượng trong hội này

Trong hiện tiền Điều ngự Thích Ca

Đã vô lượng kiếp, từng thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Rằng xưa, hết chuyện xưa rồi

Rằng nay, hết chuyện thành xưa

Rằng xưa, rằng xữa, rằng xừa

Rằng xưa, rằng xữa, rằng xừa, rằng xưa.

Tháng 11 – 2009  

Trường Ca Pháp Hoa 28

(Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát phẩm)

Bồ tát Phổ Hiền đại nguyện vương

Nguyện mang Diệu Pháp bước lên đường

Truyền lưu khuyết phát mười phương cõi

Tứ Thánh, Tam Thừa, nhập pháp vương

Mười nguyện Phổ Hiền khuyết phát ra

Chúng sanh ba cõi biết về nhà

Sáu đường lên xuống ngừng sinh tử

Bởi nhập lưu Giáo pháp Phật Đà

Lành thay Bồ Tát Phổ Hiền Vương

Thánh đức noi gương vạn nẻo đường

Vạn loại luân hồi trong bốn biển

Thuyền từ bát nhã chuyển thanh lương

Lành thay Bồ Tát Phổ Hiền Vương

Dấu ấn truyền trao như tấm gương

Phản chiếu mười phương cùng thế giới

Cam lồ diệu pháp hiện ngân sương

Đảnh lễ thành tâm Đức Phổ Hiền

Chúng con nguyện giữ vẹn châu viên

Chúng con nguyện bảo toàn Cổ Đức

Muôn một thâm ân nghĩa đáp đền

Cúi đầu đảnh lễ Phổ Hiền Vương

Đệ tử chúng con khắp bốn phương

Nhân loại năm châu cùng chí nguyện

Theo dòng Tứ Thánh bước lên đường

“Chúng con khổ, nguyền xin cứu khổ

Chúng con khổ, nguyền xin tự độ”

Báo Phật ân, trí tuệ tuyệt vời

Chuyển pháp thân lưu xuất nơi nơi

Chúng con nguyện, vào ra sinh tử

Chúng con nguyện, dứt đường sinh tử

Không còn ai địa ngục A Tỳ

Không còn ai chìm ngập mê si

Thế biết tại sao:

“Ba rừng giáo lý còn lưu lại

Cho đến bây giờ vẫn trắng tay

Trăng khuyết vì mây chưa vén trọn

Hay trăng còn đợi bóng đêm dài”

Tại sao không biết:

Ba rừng giáo lý còn nguyên vẹn

Tay trắng vì tay đã trắng tay

Trăng khuyết trăng tròn, cần chi nữa

Bóng đen đâu có, hỏi đêm dài.

Tháng 11 – 2009

Trường Ca Pháp Hoa 30

(Hồi hướng công đức – Tác giả xin kết)

“Thiên, A Tu La, Dạ Xoa, thảy

Đến nghe pháp đó nên chí tâm

Ủng hộ Phật Pháp khiến thường còn

Mỗi vị siêng tu lời Phật dạy

Bao nhiêu người nghe đến chốn này

Hoặc trên đất liền hoặc hư không

Thường với người đời sanh lòng từ

Ngày đêm tự mình nương pháp ở

Nguyện các thế giới thường an ổn

Phước trí vô biên lợi quần sanh

Bao nhiêu tội nghiệp thảy tiêu trừ

Xa lìa các khổ về viên tịch

Hằng dùng giới hương xoa vóc sáng

Thường trì định phục giúp tự thân

Hoa mầu Bồ đề biến trang nghiêm

Tùy theo chỗ ở thường an lạc”

Chúng sanh dù thiện hay dù ác

Nhân loại dù tỉnh hay dù mê

Ai ai cũng biết nẻo đường về

Căn nhà xưa bản lai diện mục

Tứ Thánh lục phàm đều quy nhất

Thiên đường, địa ngục bởi do tâm

Nguyệt khuyết nguyệt tròn, bởi do trăng

Dứt hết nẻo, ngại chi đường lối

Về đến nhà, thì đừng có hỏi

Ngón tay chỉ hướng, hỏi chi tay

Phật Pháp Thân thường trụ hiển bày

Ngộ, không ngộ vì mê với tỉnh

Linh Sơn Hội Pháp Hoa còn đó

Long Hoa Hội đã có kia rồi

Tay cầm hạt, một chuỗi chưa niệm

Hiện liên đài pháp tọa nơi nơi.

Tháng 11 – 2009

------------------------------------------

Trao lại cho em

Có những người em biết hướng về nguồn cội

Nghe trong lòng sung sướng quá đi thôi

Tre già măng mọc, sợ gì giữa đất trời

Khóe mắt khô hoen mi mờ lệ sử

Cha Quốc Tổ trên ngôi cao thờ tự

Mẹ Âu Cơ trên đỉnh núi kiêu sa

Năm ngàn năm sừng sững mái quê nhà

Mảnh dư đồ thiêng liêng thêu gấm vóc

Sóng Biển Đông triều triều dâng hồn nước

Gió Trường Sơn lồng lộng ngát hương quê

Để tượng trưng son sắt vẹn ước thề

Dòng lịch sử ngân vang trao thế hệ

Có những ngưòi em biết giữ gìn Đất Mẹ

Hoa cội nguồn bừng nở đất Quê Cha

Lòng an vui nghe hai tiếng sơn hà

Đất phương Nam, người phương Nam tọa thị

Ta hát vang trên đầu nguồn của suối

Em reo hò giao tiếp tận cuối sông

Chim Lạc kêu đáp lại tiếng chim Hồng

Tiên cỡi hạc, Rồng hóa thân cất cánh

Ải Nam Quan, đỉnh địa đầu dựng nước

Mũi Cà Mau, điểm cuối mở giang san

Trổi hồn thiêng sông núi của năm ngàn

Truyền trao mãi muôn đời không thay đổi.

Tháng 11 – 2009

 

Ân Phụ Mẫu Tiên Rồng

Bông hồng hiếu hạnh thiêng liêng

Lành thay, con cháu thảo hiền nhớ ân

Mẹ Cha, công đức song thân

Ông Bà, dòng họ gốc phần thâm sâu

Băng qua vạn lý nhịp cầu

Dâng lên Tiên Tổ khởi đầu sơ khai

Hùng Vương quốc phụ phương đài

Âu Cơ quốc mẫu ươm ngai Lạc Hồng

Ngàn năm văn hiến núi sông

An nhiên tọa thị giống dòng Việt Nam

Bông hồng hai sắc cưu mang

Cho anh cho chị lên đàng đắp xây

Cho em nâng cánh hoa nầy

Tin yêu sức sống đong đầy trong tim

Ân cha nghĩa mẹ đáp đền

Ân Tiên ân Tổ thênh thênh đất trời

Cùng nhau phụng hiến suốt đời

Băng đèo vượt núi không lời thở than

Dù cho đổi cả trần gian

Ân kia vời vợi muôn ngàn thấm sâu

Dù cho bãi biển nương dâu

Ân kia giữ mãi trong đầu nhớ nghe.

Tháng 11 – 2009

 

Thương Người Miền Trung

Bão số 9, tử vong hơn 200 người, tàn phá hơn 10 Tỉnh

Bão số 10, tràn ra phía Bắc, đe dọa phía Nam

Bão số 11, mới một ngày 4-11-09, giết chết gần 100 người chỉ riêng

Phú Yên, Bình Định, Nha Trang. Còn nhiều Tỉnh nữa thì sao ?

Biết nói gì cho Miền Trung và chia sẻ gì cho Miền Trung ?

Nhìn quê hương thiên tai đang ập phủ

Bão lụt gì mà bão lụt triền miên

Nước trào dâng, bão xoáy tốc liền liền

Dân mình ơi, biết làm sao chịu nổi

Tiếng nước cuốn, nước trôi, kêu la ơi ới

Tiếng nhà sập, mái tung, hớt hãi thất thanh

Mắt Mẹ già bỗng tuôn chảy thật nhanh

Đứa con nhỏ nước xoáy chìm biến mất

Trời ơi là trời

Đất ơi là đất

Sao không giết mẹ già mà lại giết con thơ

Lụt năm ngoái đã cướp đi một đứa

Tâm hồn muốn dại khờ

Lụt năm nay, lại cướp thêm đứa nữa

Tấm lòng xé nát tan, còn gì mà than thở

Nước, nước ùn ùn như thác đổ

Bão, bão co giật như điên cuồng

Mẹ sống làm gì, con ơi là con

Phải chi có thang, leo lên hỏi ông trời cho ra lẽ

Ổng ngậm câm, gầm gừ, ngạo nghễ

Chẳng nói chẳng rằng

Đánh sấm đánh sét chớp lòe

Mây đen sì, mây vần vũ phát ghê

Mưa trút nước, trút ào ào phát sợ

Trâu bò chìm lỉm, nói chi đến nghé

Gà vịt nổi trôi, nói chi gia cầm

Làm đất trời mà đày đọa quá thâm

Miền Trung ơi, phải từng cơn gánh chịu

Lúa ngô ngâm mộng chết thúi

Hoa màu rủ mục chết bông

Mì, lang trôi nổi phập phồng

Áo, quần cuốn phăng đây đó

Rồi bàn, rồi ghế

Nào chảo, nào xoong

Vụn vỡ mái tôn

Dập vùi mái lá

Tất cả tơi tả

Tất cả lở bồi

Mền rách đắp trời

Trăng sao đắp chiếu

Đã biết cảnh màn trời chiếu đất thưở sinh ra

Cho đến nay, cũng không cửa không nhà

Sống ủm thủm như cái chuồng mỗi lần vá lại

Biển dâu mấy bãi

Nát cõi tang thương

Đời tôi mấy nẻo

Nát cảnh đoạn trường

Miền Trung ơi Miền Trung

Ôi, thùy dương cát trắng

Đất thì đất đá, khô cằn mùa nắng

Bùn thì quến bùn, nhầy nhụa mùa mưa

Miền Trung ơi, khổ quá biết chưa

Đổ tâm lực, nhũn tàn gai góc

Ai nhớ Miền Trung, đèo cao núi dốc

Ai thương Miền Trung, vũng chéo lưng đồi

Đó là vùng đất quê tôi

Từng năm lũ lụt tơi bời tang thương

Của miền cát trắng thùy dương

Miếng cơm manh áo đoạn trường đắp xây

Hèn chi, « Hoành Sơn nhất đái »

Hèn chi, « Vạn đại dung thân »

Trần thân, cho biết thân trần

Bồ hòn cho biết, lựa lần mô tê

Lại còn răn, rứa nữa hè

Hò khoan đứt nhịp, sao nghe nức lòng

Hèn chi, thế núi đỡ sông

Hải Vân chất ngất, Cù Mông nghiêng đồi

Khi cao, cao vút lưng trời

Khi sâu, sâu thẳm mịt mờ bụi bay

Miền Trung sỏi đá khô cày

Gừng cay muối mặn mới hay nỗi niềm

Dù cho bão lụt triền miên

Dù sao đi nữa cũng miền quê tôi

Khổ đau, mới quý nụ cười

Đọa đày, mới biết thương người Miền Trung.

Tháng 11 – 2009

Mặc Giang

macgiang@y7mail.com

 

Cát bụi hoen mờ

Cọp chết để da cũng mịt mù

Người dù để tiếng cũng thiên thu

Tháp đền nhện kéo nhòa tro cốt

Nghĩa địa cỏ giăng sương phủ mờ

Cuộc lữ trăm năm có nghĩa gì

Lợi danh quyền thế lắm như ri

Hòn chồng đá tảng khua tung tóe

Cát đá bờ lau cái mốc xì

Chén sành chén kiểu choãng mà chơi

Châu chấu đá xe đã cuộc đời

Nghiệp dĩ thiêu thân tiêu một kiếp

Cột đèn nhầy nhụa xác tàn phơi

Quân tử tiểu nhân nhiễu loạn mà

Nếu không sao gọi tiếng Ta bà

Trần sa biến mất, buồn phiền não

Tâm địa tịch không, tội quỷ ma

Cái đầu có sạn bủa tan hoang

Động não mới rêm cái sắt son

Đã gọi là vàng cần thử lửa

Xát xây cho biết mặt vuông tròn

Sắt, kẽm, thau, chì, đồng, thép, gang

Ngọc ngà, châu báu, trộn kim ngân

Cao lương, mỹ vị hay cơm cháo

Khéo đọa đày cho nát ngã nhân

Tài, trí, dại, khôn, tật, tánh đa

Cái mâu, cái thuẫn thở không ra

Một mai quẳng gánh ra nhà gió

Cát bụi mù bay sương trắng pha.

Tháng 11- 2009

Mặc Giang

Thế à !!!

Vào đống tro tàn tìm thoáng xưa

Có còn đóm lửa nhỏ dây dưa

Đẳng đeo gai góc thềm hoang lạnh

Hay tắt ngúm theo bụi gió lùa

Chiếc bóng thời gian lặng lẽ trôi

Kìa trông núi ngã ngủ lưng dồi

Đèo heo hút gió vi vu mãi

Quá khứ qua rồi cũng thế thôi

Vó câu cửa sổ thoáng đưa vèo

Gió cuốn mịt mờ mất hút theo

Rêu phủ bên đường nhòa dấu vết

Hoàng hôn buông xuống bé tèo teo

Huy hoàng một thuở lại hoàng huy

Có thịnh, đương nhiên phải có suy

Bỉ cực thái lai, lai bỉ cực

Thế thời thời thế, phải như ri

Phướng lọng cờ bay rợp hí trường

Đã mang dáng dấp của phong sương

Chưa qua ẩn hiện hồn thu thảo

Ngó lại điêu tàn bóng tịch dương

Nền cũ chênh vênh ngã ngửa nghiêng

Lâu đài loang lở đổ lưng triền

Cheo leo ghềnh ráng đeo bờ dốc

Thung lũng núi đồi đứng lặng yên

Lịch thì sử tích phải can qua

Đối đáp, đẩy đưa, hã, thế à

Vật đổi sao dời trêu nghiệt ngã

Trần lao kham nhẫn cợt ta bà.

Tháng 11 – 2009

Mặc Giang

Quán Âm Thị Kính Việt Nam 1

Đêm khuya lạnh giữa núi rừng Bình Phước

Tiếng con ai sao khóc trước cổng chùa

Già Lam nghèo xuyên vách lá đong đưa

Tiếng trẻ khóc từng hồi khua thét gió

Thầy Chiếu Pháp cầm đèn dầu nho nhỏ

Cùng vài Chú Điệu, cất bước ra soi

Không bóng dáng ai, sao lạ hỡ trời

Chỉ thấy em bé, trùm khăn khóc ré

Hình như mới sinh, em còn nhỏ quá

Hai mắt nhắm nghiền, da thịt đỏ au

Sao lạ thế nầy, cha mẹ em đâu

Không lẽ ở dưới đất chui lên, hay trên trời rớt xuống

Rừng núi hoang vu, chùa quê thanh vắng

Nợ phong trần sao lại nặng duyên vương

Em bé ơi, ôi giấc mộng nghê thường

Thầy đành phải cưu mang ru giấc điệp

Đêm đầu tiên Thầy không sao ngủ được

Tiếng trẻ thơ khát sữa khóc oa oa

Đun nước sôi, pha sữa hộp, chứ biết sao bây giờ

Bàn tay Thầy sần sùi không đủ ấm

Ru bé ngủ, cất tiếng à ơ vịt rống

Nghe sao mà trầm bỗng giống tiếng tụng kinh

Em bé nghe, hình như không phải tiếng của mẹ, giật mình

Thầy chẳng biết bế bồng ra sao, nhìn em mà ứa nước mắt

Bản thân Thầy mở ra một khúc ngoặc

Khúc ngoặc hai năm, trải qua biết mấy khúc ngoèo

Ngoèo như núi rừng, hoang vắng cheo leo

Ngoặc như đồi dốc, Thầy âm thầm gánh chịu

Rừng khuya hỡi, có nghe không tiếng núi

Trăng sao ơi, le lói chi khung trời

Lòng dạ Thầy heo hút đỉnh chơi vơi

Là đàn ông, mà phải thành Thị Kính

Nhân gian có câu :

Người tính không bằng trời tính

Thị Kính xưa có pháp danh Kỉnh Tâm

Tên của Thầy lại là tên Minh Tâm

Hiệu của Thầy lại còn mang Chiếu Pháp

Quê ở Vĩnh Long, tìm lên Bình Phước

Xây dựng chùa, đặt danh hiệu Thanh Tâm

Núi rừng khuya, vằng vặc ánh trăng rằm

Sáng và tròn đầy hơn trăng mười sáu

Nhớ chuyện xưa, có Quán Âm Thị Kính

Thì chuyện nay, cũng có Thị Kính Quán Âm

Không phải chuyện của người, mà là chuyện của Việt Nam

Ta ca hát đi khắp cùng nhân thế.

Viết ngay, khi đã gởi Câu chuyện này đi cùng khắp,

và không đầy một tiếng đồng hồ sau, đã có bài này.

7 giờ tối Thứ Hai ngày 23-11-2009

TNT Mặc Giang

Quán Âm Thị Kính Việt Nam 2

Thầy Chiếu Pháp sớm hồi đầu, quy y cửa Phật

Mộng thư sinh, xin trả lại sân trường

Ba năm đại học, bụi phấn không vương

Khoác áo nâu sồng, tương chao dưa muối

Tỉnh Vĩnh Long của Miền Nam bạt ngàn ruộng lúa

Sợ chim ngàn lỡ gãy cánh sa chân

Nên Thầy tìm lên tận gió núi mưa rừng

Đèo heo hút giữa hoang vu Bình Phưóc

Trên dưới mười năm, bần hàn đạm bạc

Kiến tạo ngôi chùa, tên tự Thanh Tâm

Thầy trò trong lành, như tiếng chuông ngân

Nhưng bỗng một hôm, đất bằng dậy sóng

Vào giữa đêm khuya, núi rừng hoang vắng

Có tiếng khóc gào, như tiếng bé thơ

Tiếng khóc ngoài cổng, theo gió bay vô

Xuyên kẽ lá vách chùa che sao nổi

Thầy Trò thắp đèn, lần mò ra cổng

Tiếng khóc trẻ thơ càng rõ ràng hơn

Con của nhà ai, khóc giữa đêm hôm

Cha mẹ em đâu, mà em nằm ngo ngoe đỏ hỏn

Thầy Trò cùng kêu, mà chẳng nghe ai lên tiếng

Duyên nghiệp thế này, biết đành đoạn sao cam

Thầy không nói không rằng, đưa hai tay bồng em lên

Đem vào phòng, châm thêm dầu, thức trắng

Cứ một hai tiếng, em cục cựa, khóc rống

Thầy lại đun nước sôi, pha thêm sữa cho em

Em oe oe, rồi nhắm mắt ngủ yên

Thầy ngồi đó, tâm can như lửa cháy

Ngày lại ngày qua, cha mẹ em đâu không có thấy

Tháng lần năm lựa, bão bùng sóng gió thị phi

Nghiệp cảnh nghiệp duyên, tột đỉnh tư nghì

Ập phủ lên Thầy, như Núi Bà Đen, cuối Trường Sơn hùng vĩ

Rồi Tỉnh, rồi Huyện, mọi Ban Ngành, đem ra cân ký

Rồi dân, rồi quân, ai cũng mổ xẻ tường tận li ti

Ngậm miệng cũng mắc quai, đừng nói há miệng, biết nói năng gì

Thầy cam phận, cam lòng, mang thân Thị Kính

Thị Kính xưa, vẫn diễm phúc hơn Thầy, nhờ giới tính

Còn Thầy thì, mang cái kiếp đàn ông

Khổ gì hơn, bằng cảnh gà trống nuôi con

Hai vai rộng, nhiều khi thua đôi cánh nhỏ

Chỉ bú, mớm, dỗ dành, hát ru, thay tả

Mà khó lòng hơn vượt núi băng đèo

Năm ba tháng đầu, ghềnh đá đẳng đeo

Đành chấp nhận như ba hồi kinh dị

Ngày tháng dần qua, em dần hơi lớn

Khi em biết đi, Thầy sung sướng quá đi thôi

Khi em biết nói những tiếng bập bẹ đầu đời

Thầy diễm phúc như đường tu chứng ngộ

Bởi thuyền khổ ải đã vượt qua biển khổ

Bởi bây giờ, em cười, em khóc, còn biết tại sao

Chứ trước đây, dù Thầy biết Bắc Đẩu, Nam Tào

Nhưng em bé khóc cười, Thầy không sao hiểu nổi

Gần hai năm sau, cha mẹ của em, lương tâm mòn mỏi

Không có nỗi đau nào, bằng nỗi đau cắn rứt lương tâm

Nên cha mẹ của em, chân thành sám hối ăn năn

Xin nhận lại đứa con thơ, khúc ruột núm nhau, ôi là da là thịt

Thầy từ mẫn nhưng nghe lòng xa xót

Không công sinh, công dưỡng cũng lắm tơ vương

Nhưng Thầy chỉ mang tạm một đoạn trường

Cuộc đày ải trả cho người nhân thế

Câu chuyện thời xưa, có Quán Âm Thị Kính

Câu chuyện thời nay, có Thị Kính Quán Âm

Trời xanh xanh, mà cây lá cũng xanh xanh

Trăng sáng tỏ trăng rằm, trăng thanh trăng mười sáu

Tôi xin hát bản trường ca hợp tấu

Chuyện Quán Âm Thị Kính của Việt Nam

Truyền cho nhau và đi khắp nhân gian

Việt Nam ta, cũng có những con người siêu xuất.

11 giờ đêm Thứ Hai, ngày 23-11-2009

Dành thêm một tiếng hồ và có thêm một bài nữa.

TNT Mặc Giang

Mấy cuộc phù sinh

Anh một anh hai anh ba

Ba anh cộng lại hơn năm trăm à

Anh một không cửa thì nhà

Anh hai cỡi gió xông pha bụi trần

Anh ba cột trụ tương phần

Đội trời đáp đất phù vân sá gì

Đường trường phỉ sức ngựa phi

Trùng dương đạp sóng kình ngư vẫy vùng

Chân mây, không có điểm cùng

Góc biển, không có điểm chung xô bờ

Mở toang cánh cửa hư vô

Thử xem vũ trụ trổi cờ ra sao

Tiên du mơ cảnh bồng đào

Thiên thần gãy cánh lộn nhào trần gian

Nghe rằng bốn biển dọc ngang

Năm châu vỗ mặt ngỡ ngàng thế nhân

Đọa đày cát đá phong trần

Xéo giày sĩ nhục cơ cần chi ai

Lão làng chưa thỏa cân đai

Thùng thình loạng choạng chân tay lều khều

Đeo mang vân cẩu tranh thêu

Ảo danh phù tướng mốc meo đã nhiều

Một mai về chốn cô liêu

Xác xơ cát bụi tiêu điều thế thôi !!!

Tháng 11 – 2009

Con tàu quê hương

 

Quê hương nặng mấy con tàu

Sân ga mấy bến sắc màu thời gian

Biết bao nhiêu cuộc ly tan

Biết bao nhiêu cuộc điêu tàn xát xây

Chìm trong tận đáy đọa đày

Sức cùng lực kiệt mặt mày tiêu sơ

Khổ đau tận đáy dại khờ

Đường hầm thăm thẳm mịt mờ chưa ra

Đêm thời hết nỗi sương pha

Ngày thời hết nỗi trầm kha bãi sầu

Quê hương nặng mấy con tàu

Dòng sông mấy khúc, nhịp cầu mấy phen

Canh khuya heo hút bên thềm

Trời đen như mực bóng đêm còn dài

Sao Hôm chi nữa Sao Mai

Gom bong bóng nước phơi đài giá băng

Ba mươi chi nữa còn trăng

Vành khuyên khuyết nguyệt, vành khăn khắn tì

Hòn chồng, đá tảng đen sì

Lâu đài, thành quách nguyên xi thủ thừa

Thời gian, mưa giập gió lùa

Lại qua, lên xuống, bốn mùa kéo nhau

Quê hương nặng mấy con tàu

Ai hay bãi biển bờ dâu bẽ bàng.

Tháng 11 – 2009

Con tàu tha phương

Tha phương từ bước lên tàu

Đoạn đành chấp nhận một màu ly tan

Biển khơi sóng bạc phũ phàng

Đẩy xô vận nước ngỡ ngàng chia xa

Chắp tay từ tạ quê nhà

Rầu rầu biển gọi mặn mà thùy dương

Chắp tay từ tạ quê hương

Lưu đày biệt xứ tha phương vọng về

Một năm chưa dám ước thề

Ba mươi năm đã, ước thề còn đi

Nào ngờ một chuyến ra đi

Kéo dài nửa kiếp bờ mi héo mòn

Núi kia còn đứng trông non

Nước kia còn đợi chờ con nước về

Người đi, bến đã xa bờ

Nửa đời lưu lạc dại khờ hồn đau

Tha phương từ vượt con tàu

Nương dâu bãi biển một màu xanh xanh

Nào em nào chị nào anh

Nghe không sóng vỗ kêu quanh ghế ngồi

Nào anh nào chị cùng tôi

Kéo tay em với vạn lời tình quê

Rằng non rằng nước chưa về

Rằng thương rằng nhớ vẹn thề có nhau

Tha phương từ vượt con tàu

Nào hay cố quận một màu biệt ly

Tha phương từ bước ra đi

Con tàu đi mãi cũng vì quê hương.

Tháng 11 – 2009

Đừng tan tro bụi tâm hồn

Trăng sao kia nhấp nháy giữa lưng trời

Đom đóm nhỏ lập lòe soi đêm tối

Ai đánh động, khua thành đồng vách núi

Tiếng vô cùng lộng gió thét uy linh

Biển Đông trêu sóng Cá Kình

Trường Sơn cợt núi hỏi mình là ai

Gập ghềnh biển rộng sông dài

Ôm bong bóng nước phơi đài sắt son

Sỏi đá kia xây xát dẫu hao mòn

Đường trường xa vạn lý tri mã lực

Đèo heo hút chông chênh ngàn đáy vực

Núi liền đồi khiếp đảm vạn sơn khê

Đã non, thì phải nặng thề

Đã nước, thì phải sắt thề cùng non

Nếu không, nào ngại mất còn

Cơ đồ lịch sử ra hồn gì đâu

Tang thương mới thấm biểu dâu

Bọt bèo mới thấm bờ lau đá vàng

Đường nhựa nắng cháy chói chan

Mới thương đường đất cái quan thuở nào

Dù đi Bắc Đẩu, Nam Tào

Nhớ thương thôn dã trăng sao quê mình

Ngàn năm, trúc vẫn xinh xinh

Ngàn đời, tre vẫn thắm tình hương quê

Lối xưa còn đó, ai về

Đường xưa còn đó, lỗi thề chi nhau

“Ra đi nhớ trước nhớ sau

Nhớ nhà mấy cột nhớ cau ấy buồng”

Ra đi nhớ nước nhớ nguồn

Nhớ cây nhớ cội nhớ vuông chưa tròn

Lửa tàn còn chút sắt son

Đừng tan tro bụi tâm hồn Việt Nam.

Tháng 11 – 2009

Biên Hòa - Chợ Quán xác xơ!!!

Người ta đại lộ thênh thang

Còn mình tiểu lộ bò càn lăn quay

Chặt chân chưa đã, chặt tay

Bôi nhau chưa đã, xát mày trấu tro

Tưởng rằng bốn biển hải hồ

Nào ngờ chết dí ao hồ vũng sâu

Người ta đại lộ bắc cầu

Còn mình tiểu lộ bể đầu nhói tai

Thùng thình áo mão cân đai

Xong rồi ủm thủm nằm dài trùm chăn

Tâm can đeo đá nặng oằn

Tự tình dằng vặc vết hằn không pha

Người ta bốn biển là nhà

Còn mình nhân ngã ta bà chưa thôi

Núi cao thương nhớ đỉnh đồi

Cội nguồn xa xót sông ngòi biển khơi

Cũng mang một kiếp trong đời

Mà sao khô kiệt lở bồi không tan

Người ta đại lộ dọc ngang

Còn mình tiểu lộ bẽ bàng ngó nhau

Ngựa đau đày đọa con tàu

Trông qua xem lại một màu tiêu sơ

Tưởng rằng ngất ngưởng phất cờ

Nào ngờ lưng cọp vật vờ sởn gai

Người ta đại lộ đường dài

Còn mình tiểu lộ miệt mài trầm kha

Hình như chung một mái nhà

Mà sao sĩ nhục đẫy đà thế ni

Oan khiên nghiệp dĩ chứ gì

Tu tu rị rị lạ hì Tào Khê

Trần sa nhiễu loạn tứ bề

Một li không dứt đường về còn lâu

Người ta đại lộ dìu nhau

Còn mình tiểu lộ chì thau nhấn bùn

Thằng điên ngó lại thằng khùng

Biên Hòa - Chợ Quán lùng bùng ai hay

Biên Hòa - Chợ Quán khổ thay

Biên Hòa - Chợ Quán cho dày xác xơ!!!

Tháng 11 – 2009

Mặc Giang

 

Ai thương Thầy Chùa ?

“Mấy đời bánh đúc có xương

Mấy đời Dì ghẻ mà thương con chồng”

Mấy đời, ngoại đạo, quạ giòng

Hội hè, đình đám lòng vòng chao tương

Mấy đời tráo đấu cân lường

Mấy đời giảo hoạt mà thương Thầy chùa

Xôi chè, chuối oản, nó lùa

Xong rồi ngoảnh mặt, nó bừa ra tro

Mình thì ôm cái mặt mo

Co đầu, rút cổ, thụt giò, phỏng tay

Thế thời, thời thế xưa nay

Chính em chính chị xéo giày nát tan

Thế nhân, nhân thế bẽ bàng

Mấy ai thương cảm đầu tròn áo vuông

Kéo màn, hết cảnh, xong tuồng

Nhà chùa đóng cửa, hậu trường te tua

Mấy đời nắng biết thương mưa

Thầy chùa mới biết thương chùa mà thôi

Thiều Nguyên khuất núi nghiêng đồi

Thanh Minh hụt hẫng đứng ngồi sao yên

Vũng sâu nặng trĩu ưu phiền

Trong ngoài ập phủ đảo điên tư nghì

Mấy đời bạc bẽo thương chì

Ô hay cửa Phật từ bi thăng trầm

Mấy đời ớt hiểm rau răm

Trộn thêm rau đắng tỏi hành, xé môi

Uống nước, còn nuốt chưa trôi

Bừng bừng mặt mũi đã đời biết chưa???

Tháng 11 – 2009

Mặc Giang

Nhớ chuyện Vân Tiên

Ngồi chơi nhớ chuyện Vân Tiên

Cụ Đồ tên Chiểu của miền Bến Tre

Đâu cần ông Phán, ông Nghè

Mà sao thiên hạ học, nghe quá chừng

Cái thời Pháp thuộc vẫy vùng

Tay sai, bán nước ùn ùn lên mây

Cụ mù, dạy học qua ngày

Giữ gìn quốc thể, bọn Tây đừng hòng

Cơm rau, dưa muối cũng xong

Chức tước, danh vị, Cụ quăng ra đường

Hễ ai sĩ nhục quê hương

Cụ Đồ một chữ cái phường vong nhân

Hễ ai sĩ nhục quốc dân

Cụ Đồ một chữ ngu đần ô danh

Hễ ai vân cẩu tranh giành

Cụ Đồ một chữ Đỏ - Xanh trên đầu

Hễ ai nhân ảnh tham cầu

Cụ Đồ một chữ không trâu thì bò

Vân Tiên cõng mẹ chạy vô

Gặp bọn hại đạo, mặc đồ chạy ra

Vân Tiên cõng mẹ chạy ra

Gặp bọn giảo hoạt, ném ngà chạy vô

Vân Tiên cõng mẹ chạy vô

Gặp bọn nịnh hót, vất đồ chạy ra

Vân Tiên cõng mẹ chạy ra

Gặp bọn danh lợi, chửi mà chạy vô

Vân Tiên cõng mẹ chạy vô

Gặp bọn thủ đắc, phất cờ chạy ra

Vân Tiên cõng mẹ chạy ra

Gặp bọn bất chính, ném cà chạy vô

Vân Tiên cõng mẹ chạy vô

Gặp bọn điếm nhục, quật mồ chạy ra

Vân Tiên cõng mẹ chạy ra

Gặp bọn nhân ngã, chết bà chạy vô

Vân Tiên cõng mẹ chạy vô

Gặp bọn mục hạ, chết mồ chạy ra

Vân Tiên cõng mẹ chạy ra

Gặp bọn tán tận, hết đà chạy vô

Nhớ thương Đình Chiểu cụ Đồ

Trẻ con lớn nhỏ hoan hô dậy trời

Chia hai sinh hoạt vui chơi

Câu câu chữ chữ muôn lời thật hay

Nếu cần, đối đáp suốt ngày

Câu kia chữ nọ khéo bày dễ thương

Cụ Đồ nay đã mục xương

Mỗi khi nhớ Cụ, thắp hương niệm tình

Vân Tiên lục bát tài tình

Câu sáu câu tám bóng hình quyện nhau

Vân Tiên có trước có sau

Dù văn hay võ, làu làu Vân Tiên.

Tháng 11 – 2009

GIẤC NGỦ QUÊ HƯƠNG

Mười năm lẻ ta xa miền nước ngọt

Xa ruộng vườn ôm ấp bóng cây xanh

Dòng kênh nhỏ lục bình trôi man mác

Khói lam hòa hơi thở quyện mái tranh

 

Miền đất sống những ngày ta khôn lớn

Cơm đồng quê hạt lúa chín mộng vàng

Công cha ta với tháng ngày tần tảo

Và mẹ hiền chín tháng đã cưu mang

 

Khơi mạch sống tươi màu bên nương rẫy

Nước quê nghèo pha lẫn vị phèn chua

Tình đầm ấm bên trời xanh thơ ấu

Không tị hiềm ngoài lời nói phân bua

 

Trong hơi thở nghe tình thêm khắn khít

Gió thanh bình âm hưởng khúc dân ca

Đồng ruộng xanh cánh cò in trăng trắng

Nắng trên cành lau lách cũng thiết tha

 

Mười năm lẻ ta chưa về quê cũ

So tuổi mình trong hiện tại mà thương

Cứ muốn nghe trong đời hơi thở cũ

Và một lần xin giấc ngủ quê hương.

 

LÊ NGUYÊN CHÂU

(bài này QH biết đã khoảng 15 năm)

 

Như cánh chim bay

Đã mười năm xa quê hương biền biệt

Hai mươi năm, còn gì nữa xa quê

Ba mươi năm, thôi, nói nữa chi hè

Thắp đom đóm lập lòe soi viễn xứ

Ta nhớ lắm, mái nhà tranh bếp lửa

Ta thương lắm, tiếng tí tách củi khô

Bóng mẹ già chiều tối đợi con về

Rồi cả nhà ấm no cơn đói lạnh

Ta nhớ lắm, bác nông phu nặng gánh

Ta thương lắm, dân quê vụ ngày mùa

Dưới đồng sâu, em cấy lúa đỡ mưa

Trên đồng cạn, anh tay cày chống nắng

Dân quê nghèo nhưng tình sâu nghĩa nặng

Tiếng tự tình vang xóm dưới thôn trên

Nơi chôn nhau, ta đâu biết mà quên

Nhưng núm rốn, mẹ cắt ra từ đó

Qua mười năm, tưởng rằng quên dần nhớ

Hai mươi năm, thêm chồng chất sao quên

Ba mươi năm, rong rêu phủ bên thềm

Gió hiu hắt mỗi đêm về vẫy gọi

Cõi trời quê phơi phương đài mòn mỏi

Chốn tha phương mờ mịt kiếp không nhà

Càng thương thêm tiếng nói của quê cha

Càng nhớ thêm tiếng tự tình đất mẹ

Cánh chim bay, dễ gì về tới tổ

Dù bay về, tổ cũ tìm đâu ra

Phải không chim sao vội vỗ bay xa

Nhanh đi nhé, kẻo hoàng hôn khuất núi!

Tháng 11 – 2009

Từ bài Giấc ngủ quê hương của Lê Nguyên Châu

do Thầy QH tặng, tôi viết bài này.

Mặc Giang

Vọng cố hương

Ta viết bài thơ vọng cố hương

Khi xa mới biết kiếp tha phương

Quê nhà một cõi trời cô đọng

Thăm thẳm hồn đau nát đoạn trường

Những ai mang kiếp sống xa nhà

Mới thấu lòng thương hình bóng cha

Nhớ mái quê nghèo nơi đất mẹ

Lá me chi lắm những la đà

Ve kêu não nuột mỗi trưa hè

Thương quá đi thôi, một tiếng Me

Nhớ quá đi thôi, tình phụ tử

Gập ghềnh sóng vỗ nước chìm khe

Khi xa mới thấu những tư lường

Sung sướng gì nghe tiếng cố hương

Lại bắt băng ngang tình cố quận

Một thương kéo nhớ đến ngàn thương

Nếu ai bỏ mất tiếng quê hương

Sống cũng thừa thôi kiếp mộng thường

Lưu lạc lung linh hồn nghĩa địa

Bụi mờ đan kín cỏ phơi sương

Ai ai cũng có một quê hương

Vẫn biết ra đi, biệt dặm trường

Chim chóc còn mong về tổ ấm

Làm người ray rức vọng tơ vương

Nắm lên chút đất của quê cha

Nặng trĩu trên tay bóng mẹ già

Một cõi trời quê tràn khối óc

Trong lòng sâu thẳm tiếng gia gia

Quê hương tôi viết, đừng nghe đau

Bạc trắng hoa cau, hỏi mấy màu

Vạn dặm trường xa, hỏi mấy nhịp

Vàng lên cát đá bãi nương dâu.

Tháng 11 – 2009

Mặc Giang

Tiếng vọng núi rừng

Ta đứng giữa rừng khuya khua gió núi

Tiếng uy linh vang vọng bốn phương trời

Hỡi núi rừng kỳ vĩ của ta ơi

Ai đánh đổ nổi thành đồng vách núi

Khi đêm đến, rùng rợn thêm bóng tối

Khi ngày lên, khiếp đảm thêm điệp trùng

Ai vô đây, bé nhỏ giữa núi rừng

Bước từng bước rụt rè trong kinh dị

Ngước mỏi ót chưa qua đầu đỉnh núi

Cúi mỏi cổ chưa nhìn hết hố sâu

Lại còn đèo, còn dốc nữa, ôi thôi

Đừng giỡn mặt nghe, hỡi thế nhân bé bỏng

Trời còn sợ mỗi đông về giá lạnh

Đất còn kinh mỗi hạ đến khô khan

Tím cho tím lòng, tím ngắt thu sang

Xuân mỉm nụ, cho trần gian dễ thở

Tội nghiệp không, hỡi những ai Thế Lữ

Một ly sơn cả kiếp nhớ thương rừng

Nhớ đồi non nghiêng vách núi điệp trùng

Hát trăng sao lộng ngân hà xao quyến

Vũ trụ kia, một khi ta lên tiếng

Tiếng vang rền đẩy nhịp kéo nhau đi

Khua thanh âm ngân vọng đến kiêu kỳ

Cho rừng núi thêm uy linh cao cả.

Tháng 11 – 2009

Mặc Giang

Thương Cội Tùng Già

Thương thay cho cội tùng già

Ngồi trơ gốc cội giữa nhà trần gian

Nhìn ra lối dọc đường ngang

Trông vào bốn vách khép màn đóng khung

Tùng ơi tùng hỡi là tùng

Bách ơi là bách cùng chung phận nầy

Nghe tùng ngất ngưởng trời mây

Nào hay một cõi niềm tây ngỡ ngàng

Nghe bách vượt bóng thời gian

Nào hay phớt gió mây ngàn thế thôi

Được mang tiếng quý trong đời

Bốn mùa chết đứng chịu trời ai hay

Nói ra xấu mặt hổ mày

Âm thầm heo hút nỗi này tình kia

Buồn trông cánh nhạn chiều về

Chim hồng bạt gió tứ bề xa bay

Cội tùng một gốc khô cây

Đất trơ đá cuội xát xây thân tàn

Cao chi, cho lắm phong trần

Trọng chi, cho lắm cơ cần tim đau

Xanh xanh cũng chỉ một màu

Cõi cằn cũng chỉ bàu nhàu bèo mây

Cội tùng trông bách thương thay

Thế gian ai muốn thân nầy tặng cho.

Tháng 11 – 2009

Mặc Giang

Ai vua, ai cọp !

Ta có nghe câu Một rừng không hai cọp

Thế mới gọi là Chúa tể sơn lâm

Để cho núi rừng huyền bí uyên thâm

Tăng kỳ vĩ giữa đất trời cao rộng

Có những khi gầm gừ, vươn vai, thét rống

Có những khi lầm lũi, khép kín, âm u

Cho rừng sâu thêm hun hút mịt mù

Cho núi thẳm thêm cao kỳ rùng rợn

Nghe tiếng cọp, ai mà không phát ớn

Giữa núi rừng, ai không khiếp uy linh

Có biết đâu, cọp cô độc một mình

Cả đêm ngày trầm ngâm vua một cõi

Lỡ sinh ra, biết làm sao thoát khỏi

Sung sướng gì mang tiếng gọi sơn lâm

Chúa gì chúa, chỉ có chúa âm thầm

Sống thui thủi một mình trong cô độc

Ta có nghe câu Gần vua như gần cọp

Vua dễ gì gần gũi với dân thường

Cọp dễ gì bầu bạn khách tương lân

Tiếng thì có nhưng làm sao có miếng

Lỡ làm vua, nên cân đai chịu trận

Lỡ làm cọp nên khoác bộ rằn ri

Lột xác ra vốn thật chẳng có gì

Cũng một đống bầy nhầy khốc khô lở lói

Vua gì mà vua, cọp gì mà cọp

Biết bao nhiêu ông vua, thèm cuộc đời dân giã quá đi thôi

Biết bao nhiêu con cọp, xót xa cho thân phận núi đồi

Ai có hiểu, và ai không có hiểu???

Tháng 11 – 2009

Mặc Giang

“Quê hương thứ hai”

nghe nhục lắm!

Tha phương khách thổ đời lưu lạc

Xây xát phong trần vọng cố hương

Biển Đông sóng vỗ, mờ bụi cát

Núi Thái mịt mờ, bạc khói sương

Ta vẫn chạnh lòng nghĩ nhớ quê

Khi hoàng hôn xuống kéo đêm về

Trăng sao ủ dột canh khuya vắng

Kiếp sống nơi đây không phải quê

Quê tôi dù có đói hay nghèo

Nhưng có tự tình dạ đẳng đeo

Xóm dưới thôn trên lòng khắn khít

Mỗi khi no ấm hay chèo queo

Đất khách tự do ai mặc ai

Sát bên hàng giậu chớ đoái hoài

Mạnh ai nấy sống và lo lấy

Có chết muỗi ruồi cũng chẳng hay

Nước lã chừng như vương chút mùi

Xứ người lạt nhách cứ lui cui

Gặp thì vẫy vẫy qua loa vậy

Không gặp tháng năm mặc kệ ngươi

Quê mình không biết sẽ ra sao

Thuở trước đói no ấm lạnh, nào

Cơm cháo ngô khoai nhường ấm cật

Còn nay thời thế có tiêu hao

Dù có tiêu hao có thế nào

Chỉ nhìn đất mẹ bớt nghe đau

Quê cha bụi đất tung bờ cát

Vẫn thấy thương thương gió xạc xào

Còn thêm một mảnh bức dư đồ

Ai đã làm cho nó xác xơ

Cắt bớt chỗ kia, xéo chỗ nọ

Tổ Tiên đau lắm, nát lòng khô

Địa đầu đâu nữa Ải Nam Quan

Điểm cuối Cà Mau sóng ngập tràn

Quần đảo ngoại nhân muốn cưỡng đoạt

Đất liền Bô-xít đỏ lây lan

Đỉnh núi Trường Sơn phủ trắng đầu

Biển Đông trồi trụt nhói lòng đau

Bờ lau cát đá te tua nữa

Gấm vóc giang sơn nát bã trầu

Còn ta biệt xứ kiếp lưu đày

Bởi thế bởi thời bởi loạn lây

Bởi nhiễu bởi nhương bởi ngoại nhập

Nếu không, sao lánh nước non nầy

Họ đâu nặng nghĩa tiếng dân tình

Tráo tráo trơ trơ cái nhục vinh

Bạo bạo tàn tàn cái sắt máu

Vì đồ vì đảng vì lao linh

Chắc người cũng khổ lụy như tôi

Tự đắc gì đâu nương xứ người

Quê hương thứ hai nghe nhục lắm

Ai nói, riêng tôi, chẳng nửa lời.

Tháng 12 – 2009

Mặc Giang

Dìu dắt vào nhà Như Lai

Khóa tu học Phật pháp kỳ 9

Cuối năm 2009

Băng qua 2010

Nhìn lên Đức Phật mỉm cuời

Tăng, Ni, Phật tử người người hỷ hoan

Rừng già che chở chồi non

Bồ đề ươm hạt vuông tròn trước sau

Đường lên Tứ Thánh nhiệm mầu

Nắm tay xây đắp nhịp cầu lại qua

Độ cho hết khổ Ta bà

Chúng sanh dìu dắt vào nhà Như Lai

Người với ta, tuy hai mà một

Ta với người, tuy một mà hai

Ưu Đàm nâng cánh hoa cài

Tử sinh bặt dấu đường dài dặm băng

Phật ân đại thệ thượng hoằng

Tam đồ hạ tế siêu thăng liên trì

Đó là đạo lý từ bi

Đó là bản hoài mười phương chư Phật

Tất cả chúng sanh

Sắc tướng, hình hài, tuy khác

Tâm như, tánh giác, tương đồng

Lắng nghe vi diệu tiếng chuông

Ngân vang tỉnh thức chơn thường trổ bông

Ngày xưa, núi khác với sông

Ngày nay, núi núi sông sông khác gì

Đường nào cũng có lối đi

Thấp cao, rộng hẹp hỏi chi nẻo về

Kìa xem, ngọn mạch Tào Khê

Linh Sơn ẩn hiện, Long Hoa mỉm cuời

Tặng Thầy một đóa xinh tươi

Tặng Cô một đóa sáng ngời tinh anh

Tặng Anh một đóa trong lành

Tặng Em một đóa trên cành thùy dương

Ta ca tiếng hát tình thương

Ta reo ánh đạo trên đường ta đi.
 

Viết tại Khoá tu học kỳ 9 của Giáo Hội tại Bringelly, New South Wales, Từ 31-12-2009 đến 04-01-2010.

ĐẠO PHÁP và DÂN TỘC

Khóa tu Phật pháp ở Úc Châu

Mỗi năm tổ chức dễ dàng đâu

Tận tâm tận lực sao hay nhất

Kết quả thật cao như vọng cầu

Phối hợp nhịp nhàng tất cả khâu

Năm ngày hòa nhịp tựa liên châu

Thời gian giờ khắc cho quy củ

Vượt sóng trùng khơi vững chuyến tàu

Con thuyền Bát Nhã thật thanh lương

Pháp vũ pháp vân chuyển pháp vương

Kinh kệ trầm hùng siêu pháp giới

Xuất phàm nhập Thánh bước lên đường

Con đường Bát chánh đã khai hoa

Sen quý hai tay dâng trước tòa

Nguyện Đức từ bi đăng bảo tọa

Đạo mầu thấm nhuận khắp gần xa

Chư Tôn Thiền Đức mọi Tăng Ni

Vì đạo cứu đời nguyện bước đi

Phật tử một lòng xin hỗ trợ

Truyền đăng tục diệm pháp vô nghì

Người con Đức Phật quyết lòng son

Sức mỏi, nhưng tâm lực chẳng mòn

Dù khổ, nguyện lên đường cứu khổ

Nguyện cho Phật Pháp mãi trường tồn

Phật thân vi diêu tỏa hào quang

Phật diện châu viên ánh đạo vàng

Phật pháp nhiệm mầu hằng phổ chiếu

Phật ân trùm phủ rộng mang mang

Dân tộc, quê hương lắm thuẩn mâu

Quốc hồn, quốc túy đắm chìm sâu

Con đò vĩ tuyến chưa dừng bến

Núi Thái biển Đông sóng bạc đầu

Tiếng quốc gọi hồn vọng cố hương

Tiếng gia non nỉ thức canh trường

Vì dân vì nước sao nông nỗi

Con cháu Lạc hồng có khóc thương

Tất cả chúng ta nguyện mến thương

Một tay, xin cứu lấy quê hương

Một tay, xin giữ gìn đạo pháp

Khúc dạ tâm đan nát đoạn trường.

Tháng 01-2010

 

Ba nghiệp thanh tịnh

Tu cho sạch nghiệp của thân

Không còn đắm lụy phong trần lao linh

Tu cho miệng sạch, nguyên trinh

Không còn khẩu nghiệp tội tình đắng cay

Tu cho ý chẳng xéo dày

Không còn bỉ thử, đọa đày ngã nhân

Mây bay vất vưởng phù vân

Bọt bèo tàn tạ gốc phần vì đâu

Tang thương chi lắm biển dâu

Một đời bạc trắng mái đầu thương thay

“Ớt nào mà ớt chẳng cay”

Rau răm mới đắng, cỏ may mới phiền

Khổ, từ sinh tử triền miên

Khổ ra cửa ải mọi miền trần lao

Khổ, từ lặn hụp chiêm bao

Khổ ra cuối ngọn sóng đào biển lay

Nay, nhờ Ơn Phật quý thay

Ba rừng Giáo Lý, trắng tay sao đành

Trăm năm phù thế trôi nhanh

Nếu không tỉnh ngộ, chỉ mành treo chuông

Nay, nhờ Ơn Phật tỏ tường

Mặt trăng tay chỉ, dẫn đường Tào Khê

Phiêu du đã có nẻo về

Quay đầu bỉ ngạn, bến mê xa rời

Nghiệp thân thanh tịnh, tuyệt vời

Pháp thân vi diệu nơi nơi hiện hình

Nghiệp khẩu thanh tịnh, tuyệt tình

Trúc xinh trúc đứng một mình cũng xinh

Nghiệp ý, đóng cửa tử sinh

Ba đường sáu nẻo bặt thinh dấu hài

Thần Tiên mở hội thiên thai

Thiều quang nắng rọi hoa mai trổ rồi

Non cao, núi ngủ lưng đồi

Tu Di chót đỉnh, thời thời hoan ca.

Ngày 03-01-2010

Mặc Giang

Ngưỡng Vọng Hành Trạng Ngài Nhật Liên

Xin kính ngưỡng hướng về, một Cây Đại Thọ trong Rừng Già

Đã khuất bóng giữa núi non, đồi dốc, hố sâu, hòn chồng, đá tảng

74 năm trường, xuất gia, học đạo, hoằng dương, trau dồi huệ mạng

87 năm một cuộc lữ, âm thầm gánh vác Đạo – Đời, nặng trĩu hai vai

Thượng hoằng Phật Đạo, hạ hóa chúng sanh, hạnh nguyện miệt mài

Danh lợi, địa vị, quyền uy, như đôi dép bỏ

Quảng Trị địa linh nhân kiệt, thời nào cũng có

Có linh mới có kiệt, xuất chúng siêu quần

Có lực mới có hồn, bạt thế siêu nhân

Là núi là sông, là khí là phách, của Miền Trung Nước Việt

Hòa cùng Miền Bắc, hiệp cùng Miền Nam tổ quốc

Vững tay chèo, kèo tay lái, giữ gìn Đạo pháp, Quê hương

Dắt díu nhau đi trên khắp nẻo đường

Khi hòa hóa, khi nhu cương, để thắm tô giang sơn gấm vóc

Thế mới gọi là, Đạo Pháp và Dân Tộc

Thế mới gọi là, Phật Giáo và Quê Hương

Từ bi réo gọi tình thương

Đan tâm xây đắp cành dương óng vàng

Vai này, Đạo Pháp cưu mang

Vai kia, non nước thênh thang ba miền

Đạo mầu thấm nhuận hồn thiêng

Non sông ôm ấp nối liền tình quê

Sống sao trọn vẹn ước thề

Núi cao chớ hỏi Tào Khê làm gì

Một đời, tâm lực vô nghì

Bách niên ư hữ, cớ chi thế trần

Nhẹ hơn một áng phù vân

Trong hơn sương trắng tỏa vầng thiều quang

Một Sa di, chim ngàn còn mỏi cánh

Khi Sa môn, phi mã sánh sao bằng

Hạnh vô cùng, nguyện vô tận, đức khiêm cung

Nên đời Ngài khắc ghi nhiều dấu ấn

Một Sa di, mà đã dự hội sao cho nhất thống

Một Sa di, mà làm Giảng sư, Giáo thọ thiền lâm

Tam đàn cụ túc, chấn động sơn môn

Du hóa sang Miên, sang Lào tế độ

Kế thế trụ trì Tây Thiên Thầy Tổ

Trùng kiến Long Thọ, Chứng minh Đạo Sư

Văn Thánh cổ tự, hưng chấn thiên tư

Nhận trao Ấn Tín, Tam - Tứ Tăng Thống

Không sư tử hống, mà còn hơn sư tử hống

Không hổ hùm thiêng, mà còn hơn hổ hùm thiêng

Một tiếng chuông ngân, vang vọng mọi miền

Một cây đại thọ, tàng che bóng phủ

Tăng Thống, Phụ tá hai đời, đủ hay chưa đủ

Lịch sử Phật Giáo, truyền trao, thiếu hay rằng thừa

Trời chẳng dám dùng dằng, đất chẳng dám dây dưa

Nào nghĩa lý nội ngoại ỡm ờ thời thế

Đầu trần góc bể

Chân duỗi thiên nhai

Đời – Đạo hai vai

Càn khôn nể mặt

Một vì sao sừng sững giữa vòm trời, đã tắt

Một đại thọ giữa rừng già, thũng gốc Tây qui

Một cuộc huyễn sinh, tụ thì đến, tán thì đi

Nhưng nghĩa nặng tình sâu, cho rừng khuya khua bóng núi

Vẫn còn kia, Đệ tử, Môn đồ, Pháp lữ

Vẫn còn đây, Đạo pháp, Dân tộc, Quê hương

Sen vàng chín phẩm Tây Phương

Ta Bà hồi nhập mở đường độ sanh

Kìa xem mây trắng trời xanh

Vô Ưu một đóa trên cành thiên thu

Ta Bà còn lắm chỗ dư

Ngài mau quay gót độ người thế nhân.

Úc Châu, ngày 13-01-2010

Thích Nhật Tân kính bái

 

Tiễn Người thăm lại Nhà Xưa

Tràn nước mắt cho bờ mi ấm lạnh

Ngập thương đau cho cay xé tâm hồn

Nung lò cừ để tôi luyện sắt son

Lửa thử vàng để trui rèn chí khí

Vì Đạo Pháp leo lên đồi thế kỷ

Vì Quê Hương trèo vách núi nhiêu khê

Hạnh dấn thân không sao vẹn ước thề

Tâm nguyện lực chẳng sờn lòng gai góc

Biển trần khổ ta du thuyền độc mộc

Hạnh độ tha xin trang trải cho đời

Cây khô cằn ta gắn nụ xinh tươi

Đất nức nẻ xin ươm mầm nẩy hạt

Sóng triều vỗ lung linh bên bờ cát

Nước cam lồ ăm ắp vẫy cành dương

Ban đức Từ xóa sạch mọi đau thương

Ban đức Bi dưỡng nuôi chân thiện mỹ

Ai cản được bước chân người Tăng Sĩ

Áo Như Lai ta vá nhuộm tam đồ

Chắp tay nguyền với hai chữ Nam Mô

Dung tất cả nhập Huyền môn Hoa Tạng

Đất Nước này, ai có quyền mua bán

Đạo Pháp này, ai có quyền eo kèo

Tích trượng kia, ta nện cho mấy hèo

Đừng trí trá mang tội đồ Tông Tổ

Năm ngàn năm, giống Lạc Hồng rạng rỡ

Hai ngàn năm, tắm gội đạo từ bi

Đạo vì Đời, mang tâm lực vô nghì

Đời vì Đạo, nguyện tiến tu thánh đức

Người nhẹ gót thong dong về Tây Trúc

Thăm Nhà Xưa một thoáng, kẻo hoài trông

Chốn Ta Bà, sen quý mãi trổ bông

Tình Pháp Lữ mong chờ Người quay lại

Thuyền Bát Nhã, nắm tay chèo tay lái

Chuyển pháp luân, nương tâm lực tâm đan

Khắp muôn phương gieo rắc ánh Đạo vàng

Bồ Tát hạnh chu du hành Lục Độ

Đời khổ ải, nguyện lên đường cứu khổ

Đời thương đau, nguyện cứu hết thương đau

Tiếng chuông ngân vang vọng khắp tinh cầu

Áo Như Lai chưa phai màu hoại sắc

Người về thăm cho đệ huynh nhắn gởi

Đấng Cha Lành an trụ có khỏe không

Gia hộ cho trần thế bớt long đong

Thời mạt pháp chúng sanh nhiều nông nỗi.

Cung tiễn Ngài thăm lại Nhà Xưa

Ngày 14-01-2010

Thích Nhật Tân

Tiễn bước về Tây

Tiễn người quay gót về Tây

Phù sinh còn lắm nỗi nầy tình kia

Tiễn người nặng bước chia lìa

Môn đồ Pháp quyến đầm đìa móc mưa

Thương người biết mấy cho vừa

Một đời tận tụy ai chưa thấm lòng

Người đi cánh hạc thong dong

Chúng con ở lại nhớ trông bóng người

Nhìn nhau nước mắt khô cười

Cành mai trước ngõ ít tươi nụ vàng

Tiễn người tay đứt cung đàn

Đờn ngưng khúc nhịp đò ngang bóng chiều

Còn đâu sóng vỗ cầu kiều

Còn đâu gió thoảng cánh diều bay xa

Trần gian vốn chẳng là nhà

Phiêu du quán trọ Ta Bà thế thôi

Non cao núi ngã lưng đồi

Thùy dương cát trắng sóng mòi nhẹ lay

Người về hoa cỏ đan mây

Chúng con ở lại niềm tây lạnh lùng

Điểm khởi, phải có điểm cùng

Vẽ lên dấu ngọc thỉ chung đăng trình

Có tử, thì phải có sinh

Vẽ lên diện mục hỏi mình là ai

Bản hoài bản nguyện Như Lai

Ô hay, trước ngõ cành mai trổ rồi

Ân tình nặng nghĩa một đời

Gắn lên chót đỉnh chơi vơi tiếng lòng

Bảo rằng mây trắng thong dong

Biết đâu tơi tả tơ mòng ẩn sâu

Bảo rằng bãi biển nương dâu

Biết đâu bèo bọt muộn sầu mênh mang

Hữu tình gắn cõi trần gian

Vô tình lay động trên đàng ta đi

Nếu không, cạn tiếng Từ Bi

Tâm không, nhưng nặng tư nghì độ sanh.

Kính tiễn Người đi,

Ngày 14-01-2010

Mặc Giang

Thương lấy Haiti

 

Viết sau khi xem tin tức và nhìn thấy hình ảnh điêu linh, thống khổ, kinh hoàng xảy ra tại nước Haiti, nằm ở Châu Mỹ Latin, bị một trận động đất cực mạnh với cường độ 7.3 Richter xảy ra vào ngày 12-01-2010 tại vùng biển sát bờ, làm cho toàn bộ thủ đô Port-au-Prince và một vùng rộng lớn của quốc gia này đổ nát, hơn 100 ngàn người bị chết, hơn 3 triệu người sống trong cảnh màn trời chiếu đất, trong 9 triệu người theo dân số hiện tại.

 

Con số tử vong có thể cao hơn. Nạn dịch có thể diễn ra. Tình trạng cứu trợ bị tắt nghẽn vì phi trường hư hại, đường sá sụp đổ hay bị gập ghình. Nhiều tệ nạn cũng đang hoành hành tại đây,… Liên Hiệp Quốc, rất nhiều nước trên thế giới đã lên tiếng cứu trợ. Ngay cả Ngoại trưởng Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton phải hoãn chuyến công du Úc – Tân Tây Lan, để khảo sát chương trình viện trợ, đủ để biết mức độ trầm trọng khẩn thiết tới đâu. Nhiều quốc gia đã đưa quân đội, chuyên viên, bác sĩ tới để tìm cách tiếp cứu, đủ biết tính cấp bách và nghiêm trọng vô cùng.

Lại động đất xảy ra tại Haiti

Mới ngày 12 tháng 1 của năm 2010 chứ gì

Hơn 100 ngàn người bị chết chóc như ri

Hơn 3 triệu người sống trong cảnh màn trời chiếu đất

Trời gì mà trời

Đất gì mà đất

Điêu linh chất ngất

Tan nát thê lương

Tận đáy tang thương

Tận cùng thống khổ

Mạng sống con người thua cây thua cỏ

Kiếp sống con người chỉ mành treo chuông

Khi trời đất nổi cơn phẫn nộ điên cuồng

Vô số nạn nhân bị vùi chôn tập thể

Người sống sót nghẽn lòng, nín thở

Tê tái con tim, và nát dạ tâm can

Phũ phàng chi hỡi phũ phàng

Đắng cay chi hỡi ngập tràn đắng cay

Trắng tay, trắng cả hai tay

Nhà tan cửa nát mặt mày xác xơ

Tìm trong đổ nát dại khờ

Còn ai sống sót vật vờ chui ra

Tìm trong một bãi tha ma

Ai cha, ai mẹ, ai là anh em

Trời đất thênh thênh

Người người trố mắt

Ruột đau hơn cắt

Dạ xót hơn cào

Cuộc đời, tệ quá chiêm bao

Kiếp người, tệ quá bọt trào sóng tuôn

Nhìn trông đổ nát kinh hoàng

Nhìn trông thống thiết da mòn thịt thau

Còn chi mà nói khổ đau

Còn chi mà nói biển dâu điêu tàn

Xin người mở rộng cưu mang

Ít nhiều cũng tấm lòng vàng quý thay

Xin người dang rộng đôi tay

Lá lành lá rách mới hay nghĩa tình

Còn sót lại một mình em đó

Còn trơ vơ một đứa em kia

Em mang cuộc sống chia lìa

Sống cho hết kiếp đầm đìa thế nhân

Em mang cuộc sống cô thân

Sống cho cùng tận gốc phần hẩm hiu

Ruột gan đâu nữa chín chiều

Lòng son đâu nữa chỉ điều tóc tơ

Đời em, vắt nước ra mo

Vắt cơm ra cháo lần mò thế thôi

Haiti, ơi hỡi Haiti

Nhìn trông đổ nát còn gì hay không

Haiti, đau khổ chất chồng

Xuống sông tát biển bắt còng lên non

Tìm trong trái đắng bồ hòn

Để nghe góc cạnh nỉ non mấy bờ

Tìm trong tận đáy xác xơ

Để nghe cuộc sống dại khờ hồn đau

Thương người, xin viết đôi câu

Sẻ chia bùi ngọt con tàu trần gian

Thương người, xin viết đôi hàng

Đất còn chi nữa bắt thang hỏi trời

Haiti, tiếng khóc thay cười

Hỡi ai thương xót, cho người Haiti!

Ngày 15-01-2010

TNT Mặc Giang

macgiang@y7mail.com

Việt Nam dân tộc anh hùng

Ta mang theo cả quê hương

Ta mang theo cả hình hài đất mẹ

Ta mang cả vóc dáng quê cha

Năm ngàn năm xây dựng nước nhà

Bao thời đại kinh qua lịch sử

Dòng giống Lạc Hồng,

Thương yêu tình tự

Con cháu Rồng Tiên,

Máu đỏ da vàng

Phía Bắc đỉnh đầu,

Cửa Ải Nam Quan

Phía Nam cuối mũi,

Cà Mau biển lộng

Đức Tổ Hùng Vương,

Cờ bay khói quyện

Đại phá Hán Tàu,

Nhị kiệt Trưng Vương

Ngô Quyền đại thắng,

Quét sạch Bắc phương

Chôn mộng xâm lăng,

Bạch Đằng dậy sóng

Đánh tan Nguyên Mông,

Đức Trần Hưng Đạo

Dẹp lũ tham tàn,

Giặc Minh tàn bạo

Áo vải Lam Sơn,

Lê Lợi phất cờ

Đại đế Quang Trung,

Giặc Thanh chật mồ

Việt Nam thái hòa,

An bình thịnh trị

Ba Miền tổ quốc,

Thành đồng vách núi

Một dãy Trường Sơn,

Chống đỡ sơn hà

Biển Thái Bình, vượt sóng đẩy bờ xa

Non nước Việt, thành giang san cẩm tú

Ta mang theo cả quê hương

Ta mang theo cả hình hài đất mẹ

Ta mang theo cả vóc dáng quê cha

Nước Việt Nam thế thế an hòa

Dân Việt Nam thời thời oanh liệt

Mỗi tấc đất kết tinh anh hùng hào kiệt

Mỗi bước đi cấu thành trung dũng keo sơn

Đội phong ba sức lực không mòn

Dẫm phong trần chí khí không chuyển

Chống ngoại xâm tung hô một tiếng

Triệu triệu con người, và triệu triệu trái tim

Xuất xử như thần, bão thổi triều dâng

Đạp tất cả mọi chông gai thử thách

Ông cha ta đã khai thông chuyển mạch

Con cháu ta mãi nối tiếp truyền thừa

Vượt bại thành, băng nghiệt ngã hơn thua

Điểm cuối đích, khải hoàn bài ca chiến thắng

Dân Việt Nam ta tình sâu nghĩa nặng

Nước Việt Nam ta biển rộng sông dài

Truyền ngàn xưa lưu lại đến ngàn sau

Không biến thể không lung lay đâu được

Ta ra đi, vì non sông đất nước

Ta ra đi, vì dân tộc quê hương

Đó là lời tuyên xưng, dõng dạc đường đường

Như Hịch Tướng Sĩ, hay Bình Ngô Đại Cáo

Đất anh hùng, sinh ra anh hùng tiết tháo

Đất địa linh, sinh ra nghĩa sĩ anh thư

Chủ hòa, chủ bại, bám danh, bám lợi ư

Hội nghị Diên Hồng, hùm thiêng trỗi dậy

Ta mang theo cả quê hương là thế ấy

Báo khắp cùng trên bốn biển năm châu

Đụng Việt Nam không tan xác cũng bể đầu

Bao nhiêu thời xâm thực đều sứt tai, gãy gọng

Con cháu Lạc Hồng, một dòng một giống

Đất nước Việt Nam, một thế một phương

Trung liệt, trâm anh, nghĩa khí phi thường

Quét tất cả mọi bạo tàn hống hách

Năm ngàn năm văn hiến, vững hơn bàn thạch

Trang lịch sử huy hoàng, son sắt đan thanh

Trên, rúng động trời xanh

Dưới, rền vang khắp đất

Truyền trao nhau muôn đời không mất

Tiếp nối nhau muôn thuở không cùng

Việt Nam dân tộc anh hùng

Việt Nam là của giống dòng Việt Nam.

Mặc Giang

Tháng 4 – 2010

macgiang@y7mail.com 

Ba Mươi Lăm Năm

Mười năm sắc úa lên màu

Hai mươi năm rũ con tàu xác xơ

Ba mươi năm đã tàn khô

Thêm năm năm nữa sương mờ bụi bay

Cỗi cằn đeo đẳng hao gầy

Tóc bay trắng gió mặt mày hằn sâu

Xát xây cho nát khối đầu

Đập giũa cho bấy cơ cầu tâm can

Mười năm đứt mấy đoạn trường

Hai mươi năm những tư lường tóc tơ

Ba mươi năm luống dại khờ

Thêm năm năm nữa cơ hồ còn chi

Lối mòn cạn hết nẻo đi

Đường hầm thăm thẳm đen sì trước sau

Biển sâu xơ mạn con tàu

Núi cao thách đố cánh diều tầm không

Khản kêu rát cổ chim Hồng

Chim Lạc đờ đẫn tang bồng phong sương

Mười năm còn thắm cương thường

Hai mươi năm bấy chao tương sẫm màu

Ba mươi năm phủ bờ lau

Thêm năm năm nữa vàng thau pha chì

Hoàng tuyền ùn nghẽn lối đi

Dương trần cũng thế khác gì chưa chôn

Đêm đêm tiếng quốc rợn hồn

Trường canh non nỉ sắt mòn son pha

Cũng vì tiếng quốc gọi gia

Tiếng non gọi nước cửa nhà Việt Nam

Mười năm chưa nỡ sao cam

Hai mươi năm thử đá vàng lửa nung

Ba mươi năm luống chưa cùng

Thêm năm năm nữa anh hùng biết tay

Phần ba thế kỷ miệt mài

Tinh hoa sức lực phơi đài dặm soi

Trùng trùng đất lở cát bồi

Biển khơi sóng vỗ núi đồi mù sương

Cũng vì hai tiếng quê hương

Thế thời thời thế nghê thường tình tang.

Tháng 4 – 2010

Quán trọ vô thường

Nếu ai cũng chọn an bình

Khổ đau để lại cho ai

Đường đời dễ gì bằng phẳng

Hoa hồng nào chẳng có gai

Nếu ai cũng chọn thanh nhàn

Não phiền để lại cho ai

Biết sống trong đời mới khó

Thế nhân ngày ngắn đêm dài

“Cái quay búng sẵn trên trời”

Lợi danh phú quý trò chơi

Đốt đèn trượng phu quân tử

Cổ kim gương sáng cho đời

Bức màn nhân ngã loanh quanh

Sương sa ngọn cỏ mong manh

Cửa tử vô thường vẫy gọi

Hết rồi một kiếp trôi nhanh

Biết chia nhau trong cái khổ

Biết chia nhau trong niềm vui

Cân bằng cuộc đời sướng khổ

Ai ai cũng có nụ cười

Cái bè danh lợi cong cong

Giả nhân giả tướng tréo tròng

Tiểu nhân lềnh khênh đón gió

Đại nhân thiên hạ khó tìm

Cuộc đời như một trò chơi

Trăm năm rồi cũng tiêu đời

Nghĩa trang xanh rì hoang lạnh

Một mai rồi cũng chơi vơi

Hoa thơm trong đời mới khó

Cỏ dại thật dễ lây lan

Một khi giã từ quán trọ

Ùn nhau chật ních suối vàng

Sao không giành nhau trên đó

Mà nay chui xuống dưới kia

Thẹn thùng thập thò lấp ló

Muộn rồi tội nghiệp thương chưa!

Tháng 3 – 2010

Biết thương Cha Mẹ

Khi em vừa mới sinh ra

Mẹ cắt núm nhau chôn đó

Cha cắt núm rốn chôn kia

Cho em có mặt ấy mà

Khi em vừa mới chào đời

Òa lên vang vang tiếng khóc

Mẹ cha chúm chím mỉm cười

Con tôi thương quá đi thôi

Chín tháng cưu mang đức mẹ

Ba năm bồng ẵm ơn cha

Sữa mẹ khô dần em khóc

Nhà nghèo cơm cháo xót xa

Lớn lên cho ăn cho học

Nuôi em khôn lớn nên người

Mẹ cha yếu già thở dốc

Biết bao công sức em ơi

Nuôi con suốt đời gian khó

Đâu phải ngày một ngày hai

Đất trời mênh mông còn nhỏ

Em ơi nhớ lấy ơn nầy

Cái tiếng con hiền cháu thảo

Tổ Tiên dạy dỗ ngàn xưa

Ngàn sau báo bổ chưa vừa

Em đừng tính năm tính tháng

Đầu nguồn nước không có cạn

Cuối sông nước chảy miệt mài

Công cha nghĩa mẹ hoa cài

Thắm tô bông hồng hiếu hạnh

Rừng non nhấp nhô đồi núi

Vũng sâu nghiêng ngửa lưng đèo

Công cha nghĩa mẹ đẳng đeo

Thương con tới khi nhắm mắt

Coi chừng dầu khô đèn tắt

Tìm lại không có được đâu

Mẹ cha gian khổ dãi dầu

Đừng để một mai quá muộn

Dặn nhau để thương để nhớ

Nghe em nghe chị nghe anh

Ngoài kia cửa biển gập ghềnh

Xạc xào gầm vang lệ đá.

Tháng 3 – 2010

Quê hương yêu dấu

Quê hương ai không nhung nhớ

Đi đâu cũng muốn trở về

Dòng sông ôm ấp bờ đê

Bến cũ con đò đứng đợi

Quê hương không hờn không dỗi

Đất mẹ không chối từ ai

Đường xưa mở lối hoa cài

Lối về chờ trông bỏ ngõ

Dù ai đi đây đi đó

Xa xôi góc biển chân trời

Tình quê thăm thẳm đầy vơi

Chứa chan nỗi niềm cố quận

Ước mong trở về một chuyến

Đường dài ly cách chia phôi

Quê hương không phải đón mời

Không lẽ một đi đi mãi

Quê hương từ khi khôn lớn

Quê hương từ thuở chào đời

Đến nay vẫn thế không vơi

Lớn dần trong ta thì có

Quê hương con đường đất nhỏ

Quê hương con đường cái quan

Bụi tre khóm trúc đầu làng

Dấu tình in sâu nguyên vẹn

Ra đi không hò không hẹn

Nhưng về ai chẳng chờ mong

Như lúa chờ ngày trổ bông

Như mầm chờ xanh lá mạ

Sau hè thầm kêu tiếng má

Trước ngõ thầm gọi tiếng ba

Tạo thành vóc dáng thân ta

Ấp ủ nhà xưa ấm lạnh

Quê hương nào ai xa lánh

Hỏi ai không có quê hương

Hỏi ai không có tình thương

Dễ gì tìm quên khỏi nhớ

Quê hương cho ta hơi thở

Quê hương cho ta nụ cười

Quê hương ta mới làm người

Không ai có quyền xúc phạm

Quê hương cho ta vóc dáng

Quê hương cho ta hình hài

Quê hương không chối từ ai

Không ai có quyền đánh mất

Quê hương cho ta tư chất

Quê hương cho ta hành trang

Quê hương máu đỏ da vàng

Của người Việt Nam yêu dấu.

Tháng 3 – 2010

Nhớ mãi Tình Quê

“Đi đâu cũng nhớ quê nhà

Nhớ cơm dưa muối nhớ cà dầm tương”

Một câu ăm ắp tình thương

Một câu mà cả quê hương đong đầy

Dù cho đi đó đi đây

Quê hương mang nặng tháng ngày nào nguôi

Bởi vì nơi đó có tôi

Có anh có chị có người thân thương

Có cây cầu nhỏ bên đường

Có làng có xóm phố phường dấu yêu

Tình quê sầu mộng nâng niu

Tình người chan chứa chắt chiu giữ gìn

Hàng cây lối nhỏ bóng in

Xinh xinh trúc biếc xanh xanh tre vàng

Còn đây núm rốn đang mang

Núm nhau chôn đó họ hàng lục thân

Dù cho nay lữa mai lần

Quê nhà cố quận phong trần không phai

Đường về bóng đổ nghiêng dài

Nói ra lỗi hẹn một mai chưa tròn

Tình quê như đảo nhớ hòn

Như sông nhớ biển, như non nhớ rừng

Giật mình tỉnh mộng cây rung

Hồn quê chôn chặt tận cùng biết đau

Một mai còn có trước sau

Cam đâu hỡ quít, cau đâu mấy buồng

Để nghe một cõi tơ vương

Để nghe thấm thía tư lường hồn ta.

Tháng 3 – 2010 

Một tiếng Tình Quê

“Quê tôi nghèo lắm ai ơi

Mùa đông thiếu áo hè thời thiếu ăn”

Nói lên không phải than thân

Cũng chẳng trách phận cơ bần gian lao

Dù nghèo nhưng sống thanh cao

Nặng ân nặng nghĩa tơ hào chi ai

Chẳng qua cái nạn thiên tai

Đất cày sỏi đá khổ dài thế thôi

Trắng tay chưa đủ vá bồi

Lũ lụt lại đến dập vùi nhiêu khê

Dân tôi mang nặng tình quê

Miếng cơm manh áo vỗ về có nhau

Quê nghèo trắng dã buồng cau

Đã chôn núm rốn, núm nhau đầu đời

Mới cho muối mặn mềm môi

Mới cho núi thẳm biển khơi điệp trùng

Ở đâu cũng mến nhau cùng

Đi đâu cũng nhớ Miền Trung đượm tình

Nói ra một tiếng quê mình

Như in dấu ngọc bóng hình xa xưa

Quê tôi chan nắng đổ mưa

Chan khoai độn sắn cho vừa lòng nhau

Đi đâu nhớ trước nhớ sau

Trở về như bước nhịp cầu ái ân

Dù cho tắm gội phong trần

Như vàng thử lửa luyện thân sá gì

Sông dài biển rộng thầm thì

Núi cao hố thẳm tư nghì thắm tô

Mới thành răng rứa tê mô

Nẫu sao kệ nẫu chớ chê nẫu hè

Cũng đừng théc méc chi nghe

Nói ra một tiếng tình quê đủ “rầu”!

Tháng 3 – 2010

Chiêu hồn Lịch Sử

Chiêu hồn lịch sử linh thiêng

Anh hùng liệt nữ Tổ Tiên hiện về

Gia trì non nước sơn khê

Ngàn năm sông núi vẹn thề núi sông

Chiêu hồn Mẹ hỡi Biển Đông

Cha ơi, núi Thái giống dòng Rồng Tiên

Chở che trên khắp mọi miền

Cháu con Lạc Việt đoàn viên thái bình

Không còn thống nỗi điêu linh

Núi xương sông máu vặn mình kêu đau

Da vàng máu đỏ một màu

Mà sao thử lửa làm nau rợn hồn

Cát kia còn ụ bên cồn

Đá kia còn dựng kê hòn chờ mong

Mưa sa đợi nắng đem hong

Con thoi đợi chỉ tơ hồng tâm đan

Chớ đâu đập giũa nát tan

Cạn tình ráo máng ê càn nhiễu nhương

Chiêu hồn lịch sử xót thương

Lóe lên dấu ngọc vẽ đường mà đi

Mắt nào chẳng khép bờ mi

Lòng nào chẳng động tư nghì ruột gan

Nhìn trông ngọn cỏ bên đàng

Phất phơ trước gió mơ màng trời xanh

Nhìn trông chiếc lá treo cành

Đẳng đeo cuốn héo dỗ dành chồi non

Chiêu hồn lịch sử sắt son

Chở che gia hộ trường tồn Việt Nam

Vàng thau lẫn lộn mới chàm

Kinh qua vượt thoát bao hàm điểm tô

Nói ra một tiếng cơ đồ

Ngàn năm máu cạn xương khô chất chồng

Nói ra một tiếng núi sông

Xuống biển kéo cát, bắt còng lên non

Kết thành quốc túy quốc hồn

Cha ông xây dựng cháu con giữ gìn

Thầm thì sóng vỗ đầu ghềnh

Xa xa nước chảy mông mênh sông dài

Việt Nam dấu ngọc trang đài

Sử vàng lối cỏ hoa cài thiên thu.

Tháng 3 – 2010

Mặc Giang

Từ tạ Song Đường

Tiếng Ơn Cha, lung linh hồn Núi Thái

Tiếng Nghĩa Mẹ, rào rạc nước Biển Đông

Mà nghe sóng vỗ trong lòng

Leo đồi gió hú buồn trông đỉnh đèo

Rong rêu tựa vách cheo leo

Ngàn năm sương lạnh eo sèo bèo mây

Ta mang một tấm thân nầy

Ơn cha nghĩa mẹ đong đầy tình thâm

Sau hè rau húng rau răm

Bên hông rau đắng trước thềm rau cay

Đầu đường đan kín cỏ may

Bước quanh lối ngõ gió lay bụi mờ

Đếm trong từng tiếng đơn cô

Gõ lên cung nhịp dại khờ hồn đau

Quê nghèo trắng mấy mùa cau

Xác xơ gốc rạ sắc màu tầm không

Ra rừng nhặt lá diêu bông

Lên non tát biển xuống sông bắt còng

Tiếng Ơn Cha, giọt mồ hôi muối mặn

Tiếng Nghĩa Mẹ, lệ khép mắt sầu vương

Đếm trong vụn vỡ tình thương

Chôn trong tim thẳm trên đường từ ly

Đầu cầu Ái Tử thầm thì

Cuối sông nước chảy một đi vạn lìa

Nghĩa trang mờ khói mộ bia

Gắn trên giá lạnh đổ về tịch liêu

Còn đâu mà nói chín chiều

Ngõ sau cửa trước tiêu điều hợp tan

Vọng khua tiếng nói muộn màng

Song Đường từ tạ gió ngàn bay bay.

Tháng 3 – 2010

 

Không sao đánh đổi Tình Quê

Quê nhà vạn lý mù sương

Xát xây sỏi đá trên đường ta đi

Ra đi dù có là gì

Không sao đánh đổi biệt ly một đời

Trăng ngàn le lói dặm soi

Tình quê réo rắt gởi đồi thê lương

Mà nghe nát ruột tư lường

Chôn sâu hai tiếng quê hương đáy lòng

Lối về bỏ ngỏ hoài mong

Như sương sáng sớm đem hong nắng chiều

Quê nhà một mái cột xiêu

Tường tre vách lá chín chiều tiêu sơ

Ra đi từ đó đến giờ

Thời gian chi nữa mịt mờ tháng năm

Ba mươi nào đợi chi rằm

Xuân thu đông hạ lạnh căm bốn mùa

Phớt qua như ngọn gió lùa

Nửa đời vật vạ được thua bại thành

Vèo trông phù phiếm lợi danh

Đâu bằng thanh thản trong lành nhà quê

Nhưng sao bỏ ngỏ đường về

Bởi đành nên đoạn mải mê đêm dài

Trùng trùng bóng tối lên ngai

Hòn chồng đá tảng lối cài bủa giăng

Leo đồi thế kỷ nhục nhằn

Lao linh thức hệ vết hằn thâm sâu

Chông gai hầm hố lấp cầu

Trường ca điệu lý thuẫn mâu be bờ

Quê nhà cố quận đêm mơ

Giật mình thức dậy mịt mờ bóng đêm.

Tháng 3 – 2010

 

Thăm cánh hoa này

Cho ta thăm cánh hoa này

Bỏ quên vũng tối hao gầy ra sao

Mưa sa gió táp đưa vèo

Núi cao hố thẳm đèo heo hút lồng

Hoa kia nguyên vẹn thanh trong

Thủy ngân còn gợn, nước sông còn gàu

Hoa kia nguyên vẹn sắc màu

Ngày lên không vướng đêm thâu không màng

Cho ta thăm cánh hoa này

Đã lâu không biết mặt mày ra sao

Lên trời còn hỏi trăng sao

Xuống đất còn hỏi phóng lao chi hè

Nghe trong một tiếng im re

Hiện ra bốn hướng tứ bề sắc không

Ẩn vào nhẹ tựa lông hồng

Chim bay đáy nước dòng sông vô tình

Tìm ta chẳng thấy được mình

Không ta thì hỏi bóng hình ở đâu

Cho ta thăm cánh hoa này

Đừng buồn chi nhé lâu nay thế nào

Thức rồi, sao hỏi chiêm bao

Còn mê ngủ ngáy ào ào thế thôi

Hoa kia nguyên vẹn tuyệt vời

Không xa bến cũ không rời nhà xưa

Hoa kia nguyên vẹn thượng thừa

Không tàn cát bụi gió lùa thời gian

Ta nâng một cánh hoa vàng

Gởi trong diệu hữu muôn ngàn thiên thư.

Tháng 3 – 2010  

Hoa Sen Tám Cánh

Hoa Sen tám cánh em mang

Tâm như sáng tỏa trên đàng em đi

Nhìn đời ánh mắt từ bi

Nói năng ký xuất nghĩ suy tỏ tường

Hoa Sen Tám Cánh em nương

Ba ngôi Tam Bảo pháp vương nhiệm mầu

Ngăn sông cách núi hố sâu

Mở lòng trắc ẩn, bắc cầu lại qua

Hoa Sen Tám Cánh thiết tha

Em mang dấu ngọc vào nhà Như Lai

Gồm thâu quá khứ vị lai

Sống trong hiện tại hoa mai trổ rồi

Cây xanh đâm ngọn thêm chồi

Hoa thơm thêm nhụy tô bồi tương lân

Hoa Sen Tám Cánh ân cần

Thời thời khắc khắc chuyên tâm tu hành

Sen vàng sen trắng sen xanh

Liên Trì Hải Hội vẫy cành thùy dương

Em mang đạo lý lên đường

Em mang chánh pháp yêu thương muôn loài

Du thuyền Bát Nhã ra khơi

Cứu người hoạn nạn độ đời trầm mê

Nhà xưa đã có lối về

Ba đường sáu nẻo mải mê lâu rồi

Hoa Sen Tám Cánh em ơi

Ưu Đàm thơm ngát, mỉm cười trao tay

Đạo vàng sáng tỏ hơn ngày

Không còn đêm tối đọa đày trần lao

Em mang hoa ấy đi nào

Đóa hoa tự tánh nhập vào pháp thân

Em mang hoa ấy chuyên cần

Ngàn năm hiện hữu trăng rằm thiên thu.

Tháng 3 – 2010

TNT Mặc Giang

 

Sống đi, đừng hỏi!

Chớ hỏi ngày mai sẽ thế nào

Ai đem giấc mộng hỏi chiêm bao

Ngày nay không biết như đom đóm

Thắp ngọn đèn khuya gọi gió vào

Chớ hỏi cuộc đời sao thế ni

Lăn vào trần thế phải như ri

Nghiệp duyên nghiệp dĩ chồng oan trái

Đành vác truân chuyên gánh đọa đày

Chớ hỏi bao giờ mới thoát ra

Đầu hôm sớm tối phải sương sa

Không có ngày lên và đêm xuống

Cái khổ triệt tiêu, ô, thế à

Cuộc đời hướng thượng biết vươn lên

Thiện mỹ, lương tri khó gọi tên

Biết sống, nó thường hằng có mặt

Nói ra, nó lặn biến chênh vênh

Cái khổ thế nào, hãy lấy ra

Kiếm tìm lục lọi khắp gần xa

Trong ngoài trên dưới đều không có

Tất cả chỉ còn mình với ta

Thế thì đừng hỏi, cũng đừng suy

Chẳng có lao lung, chẳng lỗi nghì

Không có ngã nhân, không bỉ thử

Linh còn không có, hỏi chi tri.

Tháng 3 – 2010

Ca ngợi Quê Hương

Hát bài ca ngợi quê hương

Mến yêu hòa ái thân thương

Tấm lòng chứa chan hy vọng

Con tim biết thở nhau cùng

Em hát bài ca mến thương

Chị mang tiếng hát lên đường

Anh trông sông dài biển rộng

Đâu đâu cũng một quê hương

Em đi một bước trên đường

Chị đi một bước vấn vương

Anh đi khắp lòng đất nước

Đâu đâu cũng một quê hương

Em hát bài ca dấu yêu

Chị rung khúc nhịp cầu kiều

Anh đi qua truông qua suối

Ca vang sông núi mỹ miều

Em hát bài ca nước non

Chị nhìn vết cũ lối mòn

Anh khơi suối nguồn lịch sử

Quê hương thấm nhuận sắt son

Em đi một bước trở về

Chị nhìn bến cũ con đê

Anh quay mái chèo đứng lại

Quê hương muôn thuở vẹn thề.

Tháng 3 – 2010

Mặc Giang

 

Em tôi thường hỏi

Em tôi thường hay hỏi

Biết bao giờ anh về

Mẹ trông anh mòn mỏi

Nhìn đầu ngõ như mơ

Em tôi thường hay hỏi

Biết bao giờ anh về

Mẹ già thầm khẽ bảo

Lỡ nhắm mắt không yên

Từ khi anh ra đi

Mẹ có vẻ sầu bi

Lâu lâu mẹ mới nói

Còn một đứa nữa chi

Từ khi anh vắng nhà

Thời gian ngày càng xa

Không gian ngày thêm rộng

Đêm xuống lạnh sương pha

Một năm rồi năm năm

Năm năm rồi mười năm

Hai mươi ba mươi nữa

Như cá lặn biệt tăm

Không lẽ không nhớ nhà

Còn đây bóng mẹ cha

Còn kia em thơ nữa

Anh không chút xót xa

Em vặn hỏi thầm thì

Anh nghe trái “Lệ Chi”

Trầm ngâm vương vị đắng

Không biết nói năng gì

Em đừng hỏi nữa nghe

Em biết không con ve

Mỗi mùa hè ra rả

Hết mùa hè, im re

Sao có tiếng ve sầu

Mong chờ nhưng biết đâu

Hoàng hôn và bóng tối

Như vang vọng kinh cầu

Em tôi không hỏi nữa

Hỏi nữa để làm chi

Thời gian mờ rêu phủ

Như biệt cố kinh kỳ.

Tháng 3 – 2010

Mặc Giang

 

Tô thắm Giang Sơn

Này em này chị với này anh

Cẩm tú giang san thật hữu tình

Biển rộng sông dài cùng trỗi nhịp

Hòa reo khắp đất lộng trời xanh

Quê hương ta đó đẹp Ba Miền

Một bức dư đồ Nam Bắc Trung

Như gấm thêu hoa, tranh khởi sắc

Trao nhau gìn giữ đến vô cùng

Cho dù sự sống phải chia xa

Nhưng nhớ anh em chỉ một nhà

Nếu có sự gì lên tiếng gọi

Cấp thời hiện diện chẳng kêu ca

Nhớ xưa Mẹ dắt con lên rừng

Một nửa theo Cha xuống biển Đông

Tay cấy tay cày tay ruộng rẫy

Hê lên một tiếng đẹp lòng không

Năm ngàn năm trước thuở Văn Lang

Tiếp nối điểm tô trang sử vàng

Thời đại kinh qua băng thế kỷ

Việt Nam sông núi vững như thần

Nay anh nay chị và cùng em

Được sống an lành thật ấm êm

Nhớ luyện tâm can rèn chí khí

Truyền trao kế thế chớ có quên

Anh chị em ơi hỡi chúng ta

Giữ gìn lịch sử của ông cha

Gia tài của mẹ nâng niu mãi

Tô thắm giang sơn non nước nhà.

Tháng 3 – 2010

Mặc Giang

 

Hùng ca Sông Núi

Quê hương nước Việt của ta ơi

Ta muốn ca vang đến vạn lời

Ca khắp năm châu cùng bốn biển

Hòa reo điệp khúc bản hùng ca

Dựng cờ lập quốc Đức Hùng Vương

Rộng mở giang san thật phú cường

Văn hiến ngàn năm tinh túy quá

Trâm anh dũng lược thế đường đường

Tiên Tổ Việt Nam khí dũng thừa

Ông cha kiệt hiệt chẳng hề thua

Cháu con dấn bước cùng nhau tiến

Ai mộng bá quyền có nhớ chưa

Cuốn chạy tan hoang giặc Bắc phương

Tiếp theo một lũ bọn Tây phương

Ngàn năm cũng cút trăm năm xéo

Ai muốn lăm le cũng một phường

Trời đã định ban non nước này

Đất Nam sừng sững nhất đông tây

Dân Nam chí khí nhất thiên hạ

Dân Việt anh hùng tuyệt thế thay

Hát tiếng hùng ca khắp nẻo đường

Việt Nam tình tự ngát yêu thương

Con Hồng cháu Lạc kiêu sa quá

Dòng giống Tiên Rồng nhất bốn phương.

Tháng 3 – 2010

Mặc Giang

 

Tuyệt thế Sơn Hà

Quê hương gấm vóc nước non nhà

Quốc túy quốc hồn của quốc gia

Chuyển tiếp truyền lưu trao thế hệ

Ngàn năm thạch trụ vững sơn hà

Tổ Tiên mở nước phất tuyên cờ

Lịch sử oai hùng quyết điểm tô

Núi cạn sông mòn không biến đổi

Cháu con gìn giữ vẹn cơ đồ

Văn hiến huy hoàng nước Việt Nam

Tinh hoa phí phách sắt son chàm

Trung trinh tiết liệt hòa nhau quyện

Tọa thị phương đài thủ định ban

Da vàng máu đỏ giống Rồng Tiên

Nhân loại năm châu vô hậu tiền

Hồng Lạc kiêu sa vờn bốn biển

Kết tinh nước Việt của Ba Miền

Một, hát ca vang non nước này

Hai, tròn nguyện ước tay trong tay

Ba, thề cương quyết khi lâm biến

Bốn, đụng tới ta sẽ biết ngay

Quê hương dân tộc Việt Nam ta

Triệu triệu con tim chỉ một nhà

Một tiếng hô lên liền bá ứng

Dân an quốc thái khải hoàn ca.

Tháng 3 – 2010

Mặc Giang

 

Đầy bãi thuẫn mâu

Chớ bảo, đường hầm hết lối đi

Đãi bôi có lệ nói làm chi

Chui vô thì phải chui ra được

Giãy giụa kêu ca cái nỗi gì

Chịu trận, im re, thế mới là

Chúng sanh kham nhẫn chốn Ta bà

Ngồi yên chết dí trên lưng cọp

Nhảy xuống hãi hùng sợ quỷ ma

Cầm cân nẩy mực thẳng dây cương

Xuất xử biết cân đo nhún nhường

Lãnh đạo bất tài thành đạo lãnh

Gian thần nịnh tặc phải trần thân

Trượng phu, quân tử biết tư nghì

Chẳng giận, chẳng tham, cũng chẳng si

Không lợi, không danh, không ỷ thế

Chỉ nghe tiếng nói của lương tri

Chẳng có đường hầm chẳng hố sâu

Sông qua không được bắt thêm cầu

Núi qua không được băng đèo ải

Chỉ bởi chất đầy bãi thuẫn mâu.

Tháng 3 – 2010

Mặc Giang

Dựa lưng cõi chết

Anh ngồi đó dựa lưng vào cõi chết

Mắt trầm buồn tro lạnh nhạt màu sương

Vì núi sông mang chí khí lên đường

Đền nợ nước một đi không trở lại

Bạc áo trận phơi mình nơi biên ải

Đẫm máu đào tắm gội nhuận quê hương

Mỗi tấc đất chồng chất mấy lớp xương

Cả dư đồ mấy ai từng tư lự

Anh ngồi đó ngẫm qua dòng lịch sử

Năm ngàn năm văn hiến nước non nầy

Thời cha ông nước mắt phủ ngàn mây

Thời con cháu sóng tràn bờ ngấn lệ

Biển Đông kia trùng dương reo cửa bể

Trường Sơn kia sương gió lộng núi rừng

Tình quê hương mi mắt đọng rưng rưng

Chân nặng bước nghe tâm hồn xao xuyến

Bàn thờ Tổ Quốc, ngàn năm khói quyện

Dòng giống Lạc Hồng, muôn thuở soi chung

Anh vẫn ngồi yên, cõi chết xoay lưng

Ai muốn biết lần theo trang lịch sử

Anh đã đi qua, trở về quá khứ

Tôi đứng nhìn anh, nhớ lại xa xưa

Trời đang nắng mà bỗng đổ cơn mưa

Cho nấm mộ không cỗi cằn cây cỏ

Anh ngồi yên mắt buồn nhìn đây đó

Nhìn anh em sau trước cũng như mình

Và nhìn ai thương tiếc thuở chiến chinh

Người nằm xuống để cho người được sống.

Tháng 3 – 2010

Mặc Giang

 

Cuộc lữ hành

Quá khứ sẽ dần xa

Thời gian không đứng lại

Bóng dáng những ngày qua

Vẫy chào và đi mãi

 

Ai mơ về quá khứ

Như tìm đống tro tàn

Ai mơ về quá khứ

Như củi cháy thành than

 

Ta thu mình gác nhỏ

Giữa vũ trụ mênh mông

Khi giã từ quán trọ

Cùng vũ trụ đi hoang

 

Kia bóng dáng tinh cầu

Đây đá bồi cát lở

Ta theo dòng chuyển hóa

Nhặt một ánh hỏa châu

 

Vẽ lên trên bờ cát

Một bóng dáng tựu hình

Sóng ập vào tan tác

Theo bọt sóng lênh đênh

 

Hồng hoang chưa dấu ảnh

Cát bụi gợn bóng hình

Hư vô chim vỗ cánh

Vũ trụ đứng lặng thinh

 

Vẽ trò chơi không sắc

Thuyền độc lữ phiêu du

Nhà ga còi hụ tắt

Biền biệt bóng con tàu

 

Lối mờ loang cỏ dại

Vết cũ đổ rong rêu

Đỉnh đồi treo quan ải

Dốc đá vắt cheo leo

 

Ta mang một cuộc lữ

Băng vũ trụ độc hành

Vo tròn thành hai chữ

Sinh tử nổi mong manh.

 

Tháng 4 – 2010

Mặc Giang

 

Ta mãi thiên thu

Hai tiếng quê nhà

Trong đó có ta

Nhưng sao mòn mỏi

Càng ngày càng xa

Hỏi ai không nhớ

Đất mẹ đậm đà

Hỏi ai không nhớ

Còn đó quê cha

Bên dòng sông nhỏ

Bên cánh đồng làng

Đường xưa lối cỏ

Ta bước băng ngang

Tình quê cố quận

Một đi chưa về

Chiều nghiêng đổ bóng

Đồi dốc lê thê

Ta ôm vào lòng

Quê hương dịu ngọt

Ta ôm vào lòng

Tình quê không mất

Cho dù bụi cát

Cỡi gió phiêu du

Mai về với đất

Ta lại thiên thu

Ta chưa trở về

Không ai đánh mất

Mai về với đất

Ta lại thiên thu

Ta chưa trở về

Đời ta chưa mất

Mai về với đất

Ta mãi thiên thu.

Tháng 4 – 2010

macgiang@y7mail.com

Lại mình với ta

Ta đi từ thuở hồng hoang

Đến nay sót lại dấu mòn chưa pha

Ta đi khắp cõi Ta bà

Chừng như dính dấp căn nhà xa xưa

« Ta đi trong gió trong mưa

Gom bong bóng nước mà đưa về nguồn »

Bên đèo gặp lại cái truông

Bên ao gặp lại cái mương sau hè

La đà đưa đẩy lá me

Lung linh ru gió ngọn tre đầu làng

Xanh xanh trúc biếc mấy hàng

Quanh quanh xóm nhỏ băng ngang ven rừng

Ta đi đồi núi chập chùng

Biển khơi mờ mịt trồi vùng đảo xa

Ta đi ngày cũ chưa qua

Ngày mai chưa đến nữa là thời gian

Hiện về quá khứ thật gần

Tương lai đứng đợi phù vân tựu hình

Ô kìa mặt mũi của mình

Minh châu rực sáng nguyên trinh thuở nào

Hèn chi những giấc chiêm bao

Lâu lâu ta thấy lộn nhào hư vô

Ta đi từ đó đến giờ

Tưởng đâu bèo bọt trôi bờ phù sinh

Thì ra nguyên vẹn bóng hình

Ô hay trụ vũ lại mình với ta.

Tháng 4 – 2010

Mang kiếp gió sương

Vốn biết rằng anh kiếp gió sương

Mang thân phiêu bạt khắp muôn phương

Như chim vẫy cánh ngàn mưa gió

Tổ ấm mờ xa khuất vạn đường

Anh đã ra đi thuở ấu thơ

Phong ba dẫu bạc áo giang hồ

Chân trời góc biển chưa dừng bến

Tóc trắng pha màu bụi xác xơ

Đi để làm gì ai biết đâu

Nhà ga từ giã một con tàu

Hai đường song sắt đi đi mãi

Hun hút xa dần biến mất thôi

Rằng anh có nhớ chốn quê xưa

Cố quận trong anh có thiếu thừa

Hay đã vùi chôn theo dĩ vãng

Đêm đêm rơi rụng ánh sao thưa

Mới biết cuộc đời kiếp lãng du

Vàng rơi chiếc lá mấy mùa thu

Thu đi thu đến thu đi mãi

Lá rụng lá rơi lá mịt mù

Nào ai đếm được bóng thời gian

Vó ngựa phi qua kéo bức màn

Dính lại bên đường phai gió bụi

Đàn kêu tang tích tịch tình tang.

Tháng 4 – 2010

Tuổi Trẻ Phật Giáo

Tuổi trẻ Phật Giáo, biết sống dấn thân

Không quản gian nguy, không ngại phong trần

Mỗi khó khăn, rèn hạnh tinh tấn

Mỗi não phiền, rèn đức từ bi

Tuổi trẻ Phật Giáo, biết sống vươn lên

Không quản hố sâu, không ngại thác ghềnh

Mỗi bại thành, rèn hạnh hỷ xả

Mỗi ngã nhân, rèn đức bao dung

Tuổi trẻ Phật Giáo, vì Đạo tiến lên

Ơn Phật cao siêu, ta nguyện đáp đền

Thương chúng sanh, sống đời phụng sự

Thương muôn loài, ta vẫy cành dương

Nhớ ngàn xưa,

Đức Thế Tôn, vì chúng sanh, quyết tìm chân lý

Thì ngàn sau,

Cõi trần gian, vì chúng sanh, ta quyết lên đường

Nhớ ngàn xưa,

Đức Thích Ca, vượt hoàng cung, quyết tìm ngôi báu

Thì ngàn sau,

Biển trầm luân, ta du thuyền Bát Nhã thanh lương

Tuổi trẻ Phật Giáo, bi trí dũng làm đầu

Tuổi trẻ Phật Giáo, hạnh nguyện lực thâm sâu

Tuổi trẻ Phật Giáo, tay trong tay thân ái

Tuổi trẻ Phật Giáo, tim trong tim chan hòa

Tuổi trẻ Phật Giáo, từ ái vị tha

Cứu thế độ nhân, anh em một nhà

Chúng sanh an vui, sống đời thiện mỹ

Chúng sanh thái bình, ta hát đạo ca

Tuổi trẻ Phật Giáo, cứu lấy nhân gian

Không nơi khổ đau, không chốn lầm than

Chánh pháp xiển dương, duy tuệ thị nghiệp

Bốn biển năm châu, rực Ánh Đạo Vàng.

Tháng 3 – 2010

TNT Mặc Giang

macgiang@y7mail.com

Cành Hoa dâng Cha Mẹ

Cánh hoa này xin kính dâng ơn cha

Cánh hoa kia xin tôn thờ đức mẹ

Chốn linh thiêng mẹ cha thầm nói khẽ

Cõi dương trần tội nghiệp đứa con tôi

Cánh hoa này xin tưởng nhớ ơn cha

Cánh hoa kia xin nâng niu đức mẹ

Cha mẹ ơi, đừng giận hờn con nhé

Đến muôn đời con đền đáp thâm ân

Nghĩa cù lao, một đời xin ghi nhớ

Đức hy sinh, trọn kiếp xin tôn thờ

Dòng tử sinh nhịp sóng vỗ hai bờ

Con đi mãi trên hành trình cô lữ

Nhớ ơn cha, xin tạc lòng một chữ

Nhớ đức mẹ, xin khắc dạ một câu

Vũ trụ kia vô lượng số tinh cầu

Không chứa hết Đấng Song Đường cao cả

Mùi gạo thơm nghe lâng lâng gốc rạ

Mùi lúa chín thấy mạ lúc còn xanh

Cánh đồng vàng thơm trúc biếc tre xanh

Cho quê hương đượm tình thương sức sống

Cánh hoa này xin tôn thờ đức mẹ

Cánh hoa kia xin kính ngưỡng ơn cha

Bóng hoàng hôn ấp ủ lúc chiều tà

Để chan chứa nỗi niềm khi đêm xuống

Cánh hoa này xin tôn thờ đức mẹ

Cánh hoa kia xin kính ngưỡng ơn cha

Đức cù lao muôn thuở vẫn không pha

Như sóng nước Biển Đông khua Núi Thái.

Tháng 4 – 2010

Đất Tổ, Quê Cha

Đất Tổ Quê Cha năm ngàn năm dựng nước

Hy sinh chồng chất thành núi thành sông

Tử sĩ đắp xây thành ruộng thành đồng

Viết trang sử huy hoàng cho tổ quốc

Đất Tổ Quê Cha, tô bồi từng tấc đất

Là mồ hôi, là nước mắt bi hùng

Là thịt da, là xương máu cha ông

Thành quê hương ba miền Nam Trung Bắc

Ôi Cổ Loa, Thăng Long ngàn xưa

Ôi Tây Đô, Đông Đô ngàn mây

Huế, Sài Gòn, Hà Nội hôm nay

Tim trong tim, lòng bên lòng, tay trong tay

Ôi Hùng Vương Văn Lang thiết tha

Ôi Mê Linh, Lam Sơn, Đống Đa

Nước Việt Nam một dãi sơn hà

Anh chị em, Bắc Nam Trung, chung một nhà

Ta bước chân đi, nghe tiếng rung tình tự

Ta bước chân đi, nghe lệ sử chưa nhòa

Đất nước này, non sông này, gìn giữ điểm tô

Quê hương này, non nước này, là sông là núi

Ta bước chân đi, mắt cha già ngóng đợi

Ta bước chân đi, mắt mẹ già chờ trông

Anh em ta, chị em ta, trên dưới một lòng

Giống Lạc Hồng, giống anh hùng, là núi là sông

Giống Lạc Hồng, giống anh hùng, Nam Bắc Trung

Giống Lạc Hồng, của Tiên Rồng nước Việt Nam.

Tháng 4 – 2010

Mặc Giang

macgiang@y7mail.com

Gia tài của Mẹ

Gia tài của Mẹ năm ngàn năm

Đâu phải riêng ai thủ đắc giành

Ngất ngưỡng lâu đài ngồi bảnh chọe

Mắt cười ti hí nói nhăn răng

Năm mươi thế kỷ mọi tiền nhân

Xương máu hy sinh đều góp phần

Sức lực tinh ba đều cống hiến

Mới thành của nước của nhân dân

Dân tộc Việt Nam đều có quyền

Cái quyền tối thượng, quyền thiêng liêng

Kề vai gánh vác chung nhau hưởng

Không có một ai làm của riêng

Gia tài của Mẹ tự ngàn xưa

Để lại cháu con cùng kế thừa

Tiếp tục tài bồi và bảo vệ

Người người dân Việt biết hay chưa

Một mảnh dư đồ nước Việt Nam

Ai mang máu mủ giống da vàng

Ai mang huyết thống dòng Hồng Lạc

Không thể nhượng quyền không bán buôn

Vùng biển vùng trời hay ngoại biên

Đồng bằng rừng núi hay Cao Nguyên

Thượng Du xuống tận Trung Du nữa

Bất cứ nơi đâu cũng nối liền

Không ngoại nhập và không ngoại lai

Không nô lệ hóa, không mang hai

Nước ta ta giữ, dân ta sống

Thà chết còn hơn phải đọa đày

Thế thế tiền nhân đã thế rồi

Ngàn năm văn hiến máu xương rơi

Đan thanh vết sử liền tro cốt

Thế hệ chúng ta cũng thế thôi

Nước yên thời sống trong yên bình

Nước biến nếu cần quyết chiến chinh

Kim cổ xưa nay đều đã thế

Không ai trí trá hưởng riêng mình

Gia tài của Mẹ Việt Nam ơi

Dị khẩu đồng âm cùng một lời

Khác miệng đồng lòng chung chí hướng

Việt Nam bền vững đến muôn đời.

Tháng 4 – 2010 

Mặc Giang

macgiang@y7mail.com

Ngàn năm Thăng Long

Ôi Thăng Long, ngàn năm nước non trời Nam

Ôi Thăng Long, ngàn năm con cháu Rồng Tiên

Sử hùng ca, sông núi hồn thiêng

Của Việt Nam, rạng rỡ Ba Miền

Ôi Thăng Long, ngàn năm dấu xưa còn đây

Ôi Thăng Long, Rồng Tiên khắp bay trời mây

Tim trong tim, tay nắm bàn tay

Truyền nối nhau, không hề đổi thay

Nhớ ngày nao, Vua Lý dời đô

Hà Nội thành, rực sáng kinh đô

Dựng thế an bang, trong ngoài chiến thắng

Giòng máu hùng anh, tô thắm cơ đồ

Nhớ ngàn xưa, tiếp nối ngàn sau

Dù tang thương bãi biển nương dâu

Núi có thể dời, sông có thể chuyển

Dân tộc kiêu hùng, muôn thuở minh châu

Ta hát tiếng ngàn năm Thăng Long

Ta ca vang Việt Nam trời đông

Hà Nội - Huế - Sài Gòn rạng rỡ

Non nước Ba Miền là núi là sông

Ta hát tiếng ngàn năm kinh đô

Ta ca vang quê hương nên thơ

Truyền nối nhau muôn đời sống mãi

Tổ quốc Việt Nam sừng sững cơ đồ.

Tháng 4 – 2010

Mặc Giang

macgiang@y7mail.com

Tình Quê sống mãi

Quê tôi nghèo cuối phương trời biền biệt

Bóng thời gian không đủ sức nguôi ngoai

Vẫn đong đầy và sống mãi trong tôi

Lỡ nhắm mắt ôm khối sầu muôn thuở

Tôi ra đi, mẹ tôi còn ở đó

Cha oằn vai vá nhuộm mảnh khô cằn

Em còn thơ không vui trọn tuổi xanh

Và anh chị cùng người thân an phận

Tôi con nhà quê chân bùn tay lấm

Quen ruộng đồng, quen cuốc bẫm cày sâu

Quen nắng mưa sương gió nhuộm dãi dầu

Quen lúa mạ đẫm mồ hôi quê mẹ

Nếp châu thành không che miền quê nhỏ

Áo quần the không vượt mảnh vải thô

Nên trong tôi vẫn sống rất nhà quê

Mấy mươi năm vẫn vóc hình cổ hủ

Tôi mãi lang thang, kiếp người du thủ

Cả một cuộc đời, viễn xứ tha phương

Dõi mắt buồn, trông cố quận mù sương

Chưa dừng bước trên hành trình phiêu lữ

Rồi có ngày thuyền xưa về bến cũ

Mái nhà tranh ôm ấp bếp lửa hồng

Bao tự tình mang giọt nắng ra hong

Ôi Đất Mẹ, tình quê hương sống mãi.

Tháng 4 – 2010 

Mặc Giang

macgiang@y7mail.com

Không bao giờ bỏ cuộc

Bên hốc đá vẽ thiên trang diễm ảnh

Cả một đời diện bích gọi tên em

Em lặng yên như một cõi vô thinh

Ta tìm mãi trên hành trình sinh tử

Sầu Kinh Kỳ ta ra bờ Bến Ngự

Sóng Hương Giang bèo đẩy gợn hợp tan

Ta trèo lên trên chót đỉnh Hải Vân

Đèo heo hút gió ngàn khua vách núi

Gọi tên em độc hành đường cô lữ

Chân chân hình chẳng lộ diện như như

Trăm năm qua còn nữa bách niên dư

Mỗi qui khứ ta không hề mệt mỏi

Ta từng nghe tiếng vang từ hạt sỏi

Ta từng nghe hạt bụi biết kêu đau

Nhưng không nghe em trên vạn lý tinh cầu

Em có mặt hay chưa từng có mặt

Ta muốn cùng em trở về qui nhất

Cõi vô cùng vốn mờ mịt em ơi

Ta đã nương hạt bụi biết bao rồi

Qua cửa ải của muôn hình vạn trạng

Em và ta vốn trinh nguyên trọn vẹn

Chỉ lỡ làng thuở Bất Giác hồng hoang

Cho đến nay đường sinh tử đã mòn

Chưa gặp mặt phút tương phùng tao ngộ

Vụn vỡ ngàn sao khi mờ khi tỏ

Lạnh ngắt ngàn đời khi tuyết khi băng

Ta vẫn tìm em, không chút băn khoăn

Em bặt tích, nhưng ta không bao giờ bỏ cuộc.

Tháng 4 – 2010

Một đời chưa trọn

Ta tìm em một đời chưa vẹn

Ta tìm em một kiếp chưa tròn

Tâm can mòn mỏi tâm đoan

Tâm như trống rỗng đảo hoang không người

Ta tìm em nụ tươi ra héo

Ta tìm em tằm kéo ra tơ

Mắt xanh nay đã mắt mờ

Mắt huyền hóa ảo mắt mơ hóa sầu

Vẽ chân dung muôn màu muôn sắc

Dệt vóc dáng muôn vẻ muôn hình

Minh châu rực sáng trước đèn

Nhưng em bặt dấu như thềm hư vô

Em lại chẳng bao giờ xuất hiện

Gọi tên em một tiếng không lời

Vô tình chi thế em ơi

Cho ta khốn khổ một đời chưa xong

Ta tìm em như hong giọt nắng

Ta tìm em khắp nẻo cùng đường

Lần theo bóng dáng vô thường

Thử xem chơn thể tư lường ra sao

Em ẩn hiện như bao tinh tú

Đêm đêm về vần vũ tầng không

Rằng xa như thể mênh mông

Rằng gần như thể chỉ hồng treo chuông

Ta tìm em tròn vuông chưa vẹn

Ta tìm em hò hẹn chưa thành

Đôi bờ sinh tử loanh quanh

Trêu ta chi thế, cỏ xanh kia rồi.

Tháng 4 – 2010

Tìm một bóng hình

Tìm em từ thuở còn xanh

Thời gian mòn mỏi treo cành tầm không

Tìm em lên núi xuống non

Xuống sông xuống biển xuống hòn đảo xa

Tháng ngày lần lữa đi qua

Đêm đêm thức giấc canh gà chìm sâu

Tìm em điểm trắng mái đầu

Cuối sông nước chảy bên cầu sóng xô

Vô tình em hiện trong mơ

Bỗng choàng thức dậy vật vờ bóng đêm

Bật lên ánh sáng dõi đèn

Vén rèm lồng lộng bức màn vô thinh

Nhìn ra trông bóng ngỡ mình

Nhưng không, đây chỉ là hình của ta

Tìm em lặn lội gần xa

Tìm trong khắp cõi Ta bà hư hao

Cho ta tìm thấy đi nào

Trinh nguyên cũng vậy ra sao cũng đành

Dù cho trâm ngọc tinh anh

Hay xây xát đá hay xanh cỏ vàng

Dù cho diễm lệ thiên trang

Hay khô khốc cháy hay tàn bụi tro

Tương giao từ thuở ban sơ

Khôn lanh cũng thế dại khờ có chi

Thế mà cho đến hôm ni

Em đâu chẳng thấy cớ gì hỡ em !

Tháng 4 – 2010

Tìm em từ thuở ban sơ

Tìm em từ thuở ban sơ

Cớ chi từ đó đến giờ

Em vẫn lặng thinh ẩn mặt

Mình ta một cõi trơ vơ

Tìm em từ thuở ban sơ

Cớ chi em lại hững hờ

Không khi nào cho thấy mặt

Vô tình lại hiện trong mơ

Chừng như em chẳng xa ta

Đi đâu cũng thế thôi mà

Dù cho khi ngủ khi thức

Nhưng tìm thì kiếm không ra

“Hữu duyên thiên lý tương ngộ

Vô duyên đối diện bất phùng”

Thì thà không phải tri kỷ

Nhưng sao ta lại tri âm

Ta vui em cũng chẳng mừng

Ta buồn em cũng chẳng chia

Duyên chi vô tình quá nhẽ

Vô duyên sao lại chẳng lìa

Bảo rằng tiền khiên oan trái

Đẳng đeo duyên nợ trả vay

Nói đi ta xin được trả

Cũng không lên tiếng mảy may

Cớ sao ta lại tìm em

Không tên mà biết đâu tìm

Diện mạo ra sao chẳng thấy

Nhưng ta không lúc nào yên

Tìm khi từ ta có mặt

Lan man cho đến bây giờ

Em vẫn không hình không bóng

Ta tìm từ thưở ban sơ.

Tháng 4 – 2010 

Ta đi tìm em

Ta đi tìm em

Người em không tên

Không bóng không hình

Nhưng lại không quên

Ta đi tìm em

Người em không tên

Chưa từng gặp mặt

Diện mục vô hình

Ta đi tìm em

Vết cũ lối mòn

Đồng xanh cỏ nội

Em vẫn biệt tăm

Núi cao rừng thẳm

Biển rộng sông sâu

Vạn hữu tinh cầu

Em ở nơi đâu

Làng quê phố thị

Ghế đá công viên

Sông Hậu Sông Tiền

Em hỡi thuyền quyên

Trường Tiền mấy nhịp

Đó vắng bóng người

Góc biển chân trời

Em hỡi chơi vơi

Ta đi tìm em

Trên khắp mọi miền

Ngày dài đêm ngắn

Không thuở nào quên

Ta đi tìm em

Người em không tên

Không bóng không hình

Trùng trùng vạn hữu

Ta gọi tên em.

Tháng 3 – 2010

Nước Non Nhà

Nước non là nước non nhà

Nhà là của nước, nước là của dân

Trên thời ngước mặt cao ngần

Dưới thời đạp đất bước chân kiêu hùng

« Bầu ơi thương lấy Bí cùng »

Ba miền đất nước đều chung một giàn

Ngẩng đầu dõng dạc dọc ngang

Nam nhi nữ kiệt vẻ vang giống nòi

Nước non là nước non nhà

Nhà là của nước, nước là của dân

Nắng mưa dội ngược phong trần

Bền gan vững chí như thần mà đi

Trong thời dung thứ từ bi

Ngoài thời đối biện kiêu kỳ ngán ai

Chung lưng đấu cật kề vai

Thắm tô bồi đắp gia tài Việt Nam

Nước non là nước non nhà

Nhà là của nước, nước là của dân

Tin yêu bảo bọc ân cần

Anh em như thể thương thân khác gì

Lo từ việc nhỏ tí ti

Cho tới việc lớn, cũng vì chớ sao

Cùng chung một giọt máu đào

Sang hèn tài trí thấp cao không màng

Cùng chung dòng giống da vàng

Cùng chung Dân tộc huy hoàng Việt Nam

Nước non là nước non nhà

Nhà là của nước, nước là của dân

Nước non là nước non mình

Non là của nước, nước mình quang vinh.

Tháng 4 – 2010

Non Nước hữu tình

Quê hương non nước hữu tình

Đi đâu cũng nhớ như mình với ta

Quê hương non nước kiêu sa

Đi đâu cũng nhớ cửa nhà Việt Nam

Quê hương sắc chạm lên chàm

Kết nên sử tích danh lam tuyệt vời

Quê hương nước Việt nơi nơi

Đi đâu cũng thấy vạn lời mến yêu

Yêu như bắc nhịp cầu kiều

Yêu như chỉ thắm tơ điều vắt vai

Yêu như giấc mộng trang đài

Yêu như biển rộng sông dài thân thương

Chân đi từng bước trên đường

Vẳng nghe tình tự vương vương dấu hài

Chân đi từng bước một hai

Vẳng nghe dấu ngọc hoa cài tinh anh

Nào em nào chị nào anh

Nắm tay xây đắp trong lành Việt Nam

Đầy vườn có quít cùng cam

Có bầu có bí chứa chan một nhà

Dừng chân bắt nhịp câu ca

Bỗng trầm uốn khúc mặn mà tình quê

Đi đâu cũng nhớ nhau về

Ở đâu cũng vẹn ước thề sắt son

Tình rằng, nước nước non non

Quê hương sông núi đá mòn không phai

Ba Miền, vốn một không hai

Không ba không bốn phương đài điểm tô

Tình rằng, suối lạch ao hồ

Sông dài biển rộng cơ đồ mến thương

Đâu đâu cũng một quê hương

Dù đi vạn nẻo mọi đường Việt Nam.

Tháng 4 – 2010

Nước Việt dấu yêu

Ta yêu tổ quốc sơn hà

Non sông gấm vóc của nhà Việt Nam

Ta yêu thắng cảnh danh lam

Giang san cẩm tú tâm đoan sử vàng

Ta yêu từ Ải Nam Quan

Xuống sông ra biển băng ngàn Cà Mau

Ta yêu non nước một màu

Bắc Nam Trung quyện con tàu quê hương

Ta yêu khắp phố khắp phường

Xuyên qua đồng nội xuyên đường cái quan

Ta yêu khắp xóm khắp làng

Xinh xinh trúc biếc hàng hàng tre xanh

Ta yêu đồi dốc thác ghềnh

Núi cao đèo cả thênh thênh đất trời

Ta yêu nước Việt muôn đời

Ngàn năm văn hiến giống nòi Rồng Tiên

Ta yêu non nước Ba Miền

Tổ Tiên con cháu hồn thiêng kiêu hùng

Ta yêu nước Việt của chung

Truyền trao gìn giữ vô cùng mà thôi

Ta yêu ao lạch sông ngòi

Biển Đông sóng vỗ mặn mòi Trường Sơn

Ta yêu đường cũ lối mòn

Lần trang lịch sử sắt son hiện hình

Ta yêu non nước quê mình

Gừng cay muối mặn nặng tình keo sơn

Ta yêu biển mộng, ôm hòn

Thùy dương vọng ước, ôm cồn ven sông

Ta yêu ruộng lúa xanh đồng

Tươi non lá mạ đượm giồng ngô khoai

Quê hương tổ quốc ta ơi

Ta yêu mãi mãi muôn đời Việt Nam.

Tháng 4 – 2010

 

Ấm lạnh Tình Quê

Quê tôi nho nhỏ Miền Trung

Người đông đất hẹp chập chùng núi non

Đất cày sỏi đá hao mòn

Đồng khô cỏ cháy héo hon ngõ về

Quê tôi trĩu nặng tình quê

Dù kham khổ mấy cận kề có nhau

Thương như mùi trắng hoa cau

Mùi thanh hoa bưởi hoa ngâu cúc vàng

Quê tôi bốn xóm một làng

Có tre mấy lũy có hàng trúc xanh

Có con sông nhỏ trong lành

Mưa thành lũ lụt nắng thành đồng khô

Quê tôi hòa quyện bốn mùa

Xuân thu đông hạ gió lùa lại qua

Dân làng vui sống mặn mà

Sẻ chia ấm lạnh nhà nhà thân thương

Quê tôi tình nặng vấn vương

Chia chung lối nhỏ cạnh đường cái quan

Xem nhau thân thiện họ hàng

Thể như khoai sắn khoai lang một vườn

Quê tôi tôi nhớ tôi thương

Như đồng nhớ lúa như nương nắng chiều

Tình quê đâu nói chi nhiều

Chỉ hong bếp lửa nâng niu trong lòng

Tình quê đâu nói long bong

Chỉ ôm ấm lạnh trong lòng mà thôi.

Tháng 4 – 2010

Quyền thiêng liêng tối thượng

Trời đất rộng sao thu mình ốc đảo

Dân tộc hùng sao thúc thủ bó tay

Muối kia còn mặn, gừng kia còn cay

Ai chịu được nhục nhằn đày đất mẹ

Trời đất rộng sao thu mình ngõ hẹp

Dân tộc hùng sao tắt nghẽn lối đi

Quốc hồn xúc phạm, quốc túy suy vi

Mọi người dân đều có quyền lên tiếng

Thuở lập quốc, Tổ Tiên vừa xây dựng

Họ Hồng Bàng, mười tám đời Hùng Vương

Giặc phía Nam, giặc phía Bắc nhiễu nhương

Vẫn an định gần ba mươi thế kỷ

Thời Bắc thuộc, một ngàn năm thống trị

Bạch Đằng giang, tài dũng lược Ngô Quyền

Đuổi quân thù, chấm dứt mọi ách khiên

Viết trang sử chống ngoại xâm oanh liệt

Đinh, Lê, Lý, Trần – anh hùng hào kiệt

Quật Bắc phương, mở rộng phía Nam phương

Lê Lợi, Quang Trung kiệt xuất phi thường

Quân Hán Tàu biết bao lần khóc rống

Một trăm năm, thực dân Tây nuốt hận

Dẹp mộng xâm, tủi hổ phải cuốn cờ

Trang sử ta một lần nữa điểm tô

Vào nước ta, từ bị thương tới chết

Thời hôm nay, chín chục triệu người cùng dõng dạc

Cùng tuyên xưng, bất kỳ ai đụng tới nước non này

Dân tộc ta quyết trừng trị thẳng tay

Đừng hống hách, đừng ngang tàn hung bạo

Ai tiếp tay, để giữ quyền, uy, danh, lợi

Ai tiếp tay, cõng rắn cắn gà nhà

Ai nhu nhược, mang hậu họa sơn hà

Quét sạch cả, phường buôn dân bán nước

Không có lý do gì, thu mình ốc đảo

Không có lý do gì, thu mình ngõ hẹp

Tiếng ta ta nói

Nước ta ta giữ

Đất ta ta sống

Đường ta ta đi

Đó là quyền tối thượng

Và là quyền thiêng liêng cao cả.

Tháng 4 – 2010

Mặc Giang

 

Bảo tồn Sông Núi

Sống xa quê mới thấy tình cố quận

Sống xa nhà mới đậm nét cố hương

Không thiếu gì mà chỉ thiếu tình thương

Không mất gì mà chỉ mất tình ruột thịt

Không ai chia cái con tim đau buốt

Không ai chia nỗi cay xé tâm hồn

Cùng xa quê mới thấm sự héo hon

Cùng ly hương mới thấu đời biệt xứ

Ông cha ta từng chỉ dạy một chữ

Một chữ thôi mà sâu sắc vô bờ

Đánh đổi gì chứ không đánh đổi tình quê

Và tình quê chẳng có gì bù đắp được

Đã có quê thì ta phải có nước

Đã có núi thì ta phải có sông

Nước kia muôn hướng đổ về sông

Nhưng, ta không bao giờ đem đổ nước

Lại nhớ xưa từng dạy

Nước mất là nhà mất

Nhà mất là ta mất

Nước không mất một tấc đất

Thì ta không mất một cái gì

Còn nước kia bị biến thái suy vi

Cả dân tộc coi chừng không đất sống

Đừng ôm mộng leo lên đồi ảo vọng

Đừng ôm mơ thêu dệt giấc chiêm bao

Đừng ôm trăng hỏi vớ vẩn ngàn sao

Chẳng khác gì bọt bèo trôi ra biển

Tất cả, chỉ nói lên một tiếng

Nước Việt còn là dân tộc còn

Nước Việt mất là dân tộc mất

Bởi, sống mà không chủ quyền chủ đất

Nếu không nô lệ, thì cũng ngoại thuộc ngoại lai

Một ngàn năm xưa, thống thiết quá dài

Một trăm năm trước, cũng không quá ngắn

Quá khứ, ngậm bồ hòn ngâm trái đắng

Hiện tại, Tàu phù Tàu thực bủa vây

Quốc thể, Quốc hồn xúc phạm xát xây

Ta quyết chống để bảo tồn sông núi.

Tháng 4 – 2010

 

Dư đồ Tổ Quốc

Đứng nơi đây, ta nhớ về Bản Giốc

Núi chót vót trên non, địa đầu phương Bắc

Thác vắt vảnh lưng đèo, đổ xuống vực sâu

Núi cả, cây cao, rừng thẳm kê đầu

Vẽ nét ngọc đầu tiên bức dư đồ tổ quốc

Ta nhìn dấu mốc

Ghi Ải Nam Quan

Khói lửa thiêng sử tích chưa tàn

Rung tình tự năm ngàn năm thuở trước

Đức Hùng Vương dựng cờ mở nước

Hiệu Văn Lang dòng giống Tiên Rồng

Xuôi xuống, tận đồng bằng sóng vỗ Biển Đông

Ngược lên, chạy dài trùng trùng Trường Sơn vách núi

Đây Chi Lăng, kia Bạch Đằng

Đó Đống Đa, nọ Chí Linh

Hồn cha ông non nước vặn mình

Bao thời đại vùi chôn xâm thực

Ôi Cổ Loa,

dấu tích đền đài, bóng mờ rêu phủ

Ôi Thăng Long,

di thành bảo quốc, rực sáng kinh đô

Đây rồi, Hà Nội bây giờ

Ngàn năm văn vật nên thơ diệu kỳ

Sông Gianh cuốn hút ta đi

Để xem nơi đó có gì hay không

Một thời Nam Bắc trôi sông

Gần ba thế kỷ bềnh bồng nước non

Thì ra « Nhất đái hoành sơn »

« Dung thân vạn đại » lối mòn chưa pha

Ghé Cố Đô nhìn qua lối cũ

Vết Kinh Kỳ bao phủ Hương Giang

Dừng chân một chút bên đàng

Trường Tiền đẩy nhịp vang vang sóng cồn

Ta ghé Qui Nhơn

Đồ Bàn xưa hồn Chiêm vợn khói

Hương nhạt nhòa nhắn gởi ngàn mây

Hòa trong chiếc lá có cây

Nhìn gốc vướng rễ nhìn dây vướng rừng

Bờ mi khép mắt rưng rưng

Trôi bờ dĩ vãng lạnh lùng Huyền Trân

Đi vào thành phố Sài Gòn

Ba trăm năm cũ vẫn còn khắc ghi

Đường qua Bến Nghé ta đi

Đường về Gia Định thầm thì trước sau

Anh ơi đừng vội đi mau

Ghé thăm Bà Chiểu sắc màu nào quên

Sài Gòn ta dễ gì quên

Nhưng xin giã biệt, vẫy chào thành đô

Miền Nam đang đợi đang chờ

Nhanh chân lên nhé xuôi về Miền Nam

Miền Nam ruộng lúa bạt ngàn

Miền Nam bất bạc đất vàng viễn đông

Vượt cầu Mỹ Thuận

Sông Hậu Sông Tiền

Hát Cửu Long giang

Hòa reo chín khúc

Miền Nam ngào ngạt

Đượm tình Miền Nam

Cà Mau mây nước mênh mông

Mới thành chữ “S” núi sông nước nhà

Cả dòng lịch sử can qua

Mới thành tổ quốc sơn hà Việt Nam

Cà Mau nhớ ải Nam Quan

Đứng đây vọng nhớ Văn Lang thuở nào

Tình quê tình nước nao nao

Hồn quê hồn nước lệ đào chưa khô

Nhìn trông một mảnh cơ đồ

Người người dân Việt thắm tô muôn đời.

Tháng 4 – 2010  

Bình luận